LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ 

                                     

 

 


 

Người Việt ta từ ngàn năm xưa đă có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có  trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đă có những khám phá và c̣n tiếp tục truy t́m. Cùng với các nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đă có chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).

 

Bộ chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đă được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng kư hiệu giống nhau, những h́nh con ṇng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa


 

Trống đồng Đông Sơn tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp
 

Tổ tiên chúng ta đă từng phải sống qua một quá tŕnh đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đă bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt.  Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.


Trong sách Hậu Hán thư (
後漢書), quyển 14 ghi: “Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... “  Sách này c̣n viết rằng: “Mă Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đă tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mă Viện.”


Sử xưa cũng ghi lại rằng: “ Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và  Sĩ Nhiếp đă bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền th́ bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mă Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…”


Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng h́nh” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đă bị xoá sạch, v́ thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.


 

Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, viết bằng chữ Khoa Đẩu.


 

Chữ Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú.

 

Tuy nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, luôn khát vọng độc lập tự do, ông cha ta từ chữ Hán tượng h́nh đă chế tác ra thứ chữ Nôm để sử dụng, nhằm mục đích giữ ǵn nền văn hoá Việt Nam cận đại và bản sắc văn hóa thuần túy dân tộc Việt.

 

Nh́n chung Việt Nam vào thời điểm lịch sử cổ, trung đại, vẫn chưa chính thức có trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người Việt chúng ta ngày xưa đa số được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt ḷng mẹ, trong sinh hoạt gia đ́nh và thông qua những giao tiếp hàng ngày ngoài xă hội là chính. Ở giai đoạn này chữ viết v́ chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên các câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài (1)  nhờ có vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng răi trong nhân gian và ngày càng phong phú, súc tích.

 

Trong quá tŕnh xă hội phát triển, dân tộc Việt Nam ta đă tiếp xúc giao lưu với nhiều dân tộc khác. Trong tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau, vấn đề học hỏi và hiểu rơ ngôn ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần thiết.

 

Vào thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đă phải nhờ đến các cơ quan phiên dịch ở Trung Quốc như Hội thông quán, Tứ Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt Nam. Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số thứ tiếng khác được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam Dịch Ngữ (*) là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán với chữ tiếng Việt. 

 

(*) An Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với Việt Nam từng phải triều cống. 

 

Giai đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập quốc, các triều đại Vua Việt Nam đă mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật. Tuy nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ tiên ta  luôn t́m cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đă dựa trên chữ Hán để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan H́nh Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu” (2) bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể của chữ Nôm đă đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại. 

 

Tuy nhiên, chữ Nôm v́ được cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi muốn học chữ Nôm th́ phải biết chữ Nho (chữ Hán).V́ vậy chữ Nôm khó học, không phổ thông trong dân chúng, và ít được sử dụng rộng răi.

 

 

 Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du

 

(Sách cổ viết chữ Nôm)


 

 

Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đă nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đă trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đă giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát  triển nhanh chóng. Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Ḍng Tên) http://en.wikipedia.org/wiki/Jesuit Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt.  Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đă dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ.  Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ. 

 

 Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 nguyên bản như sau:


 


 

Người có công hoàn thiện công tŕnh này là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam, và  ”Bài giảng giáo lư Tám ngày” đầu tiên xuất bản vào năm 1651.  

 

 

Từ điển Việt-Bồ-La


 

Phép Giảng Giáo Lư Tám Ngày (trang đầu)

 

H́nh b́a  “Sách Phép Giảng Giáo Lư Tám Ngày” 


 

 Link sách DOWN LOAD (Phép Giảng Giáo Lư Tám Ngày)   (Tài liệu lưu trữ  88.3 MB dạng (pdf)

https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf720bf2/PHEP%20GIANG%208%20NGAY%20%28TVST%29%20%20-%20%20Cathechismvs%20%20%20Alexandre%20de%20Rhodes.pdf

 

Đây là sách giáo lư được biên soạn để giúp cho các cha truyền dậy giáo lư tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam. Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt. Để người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes - Đắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ư tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang. Sách  không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được tŕnh bày in ấn có tính cách như một giáo tŕnh sư phạm.


 

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes 

Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đă sang Việt Nam truyền đạo trong ṿng sáu năm (1624 -1630).  Ngài là người có công rất lớn trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được h́nh thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học.  Nh́n chung, sự h́nh thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đă đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó c̣n có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.


Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ  truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. V́ lúc ấy triều đ́nh phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đă không thể phát triển, truyền bá rộng răi. NGHE & Down load  (AUDIO BOOK THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)

 

Quá tŕnh h́nh thành và phát triển của chữ Quốc ngữ được hoàn chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:

(Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu của linh mục Đỗ Quang Chính, do nhà sách Ra Khơi xuất bản tại Sài g̣n năm 1972).

 

Giai Đoạn Sơ Khởi (1620-1626): 

 

Các nhà truyền giáo Âu Châu đă đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. Nhưng măi sang đến đầu thế kỷ 17 những hoạt động truyền giáo này mới được ghi lại khá đầy đủ. Khởi đầu, các nhà truyền giáo đă đến Hội An để giúp đỡ các giáo hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố) thời ấy là một cảng buôn bán sầm uất, với những phố riêng cho người Nhật và người Hoa. 

 

Theo sách cũ, người Âu Châu đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha (Portugal) (3) . Năm 1620, với sự công tác của người bản xứ, các tu sĩ Ḍng Tên (Jésuite) tại Hội An đă soạn thảo một sách giáo lư bằng chữ Nôm. Từ năm 1621 trở đi, các nhà truyền giáo đă bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc những địa danh, tên tộc, và từ-ngữ Việt trong những bản tường tŕnh cho giáo hội về hoạt động của họ. 

 

Dựa vào những tài-liệu viết tay c̣n được lưu trữ, trong giai-đoạn sơ khai của chữ Quốc Ngữ, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ: 

- Annam = An Nam 

- Unsai = Ông Săi 

- Ungue = Ông Nghè 

- Bafu = Bà Phủ 

- doij = đói 

- scin mocaij = xin một cái 

- Sayc Chiu = Sách chữ 

- Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết 

 

Giai Đoạn Hai (1631-1648)

 

Những tài-liệu viết tay trong giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đă được bỏ dấu. Nhiều chữ được viết như ta hằng thấy ngày nay. Thí dụ như: 

 

· Nghệ An 

· Bố Chính 

 

Nhiều chữ nh́n tương tự nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác 

 

· Thính hoa: Thanh Hóa 

· oũ bà phủ: Ông bà Phủ 

· hụyen: huyện 

· săy: săi 

 

Ngoài những bản tường tŕnh, giai đoạn này c̣n có ba tài-liệu quan-trọng khác. Một là biên-bản hội-nghị năm 1645 của 35 linh mục Ḍng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam (4) . Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim). Ba là cuốn tự-điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa (5) . 

 

Đến năm 1972, biên bản cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Ḍng Tên tại La Mă (6) . C̣n hai cuốn tự-điển kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Ḍng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao, đă mất tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân), từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ chúng ta c̣n biết đến hai cuốn tự-điển này là v́ chính Đắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm 1651, đă viết rơ là ông đă dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo cuốn tự-điển của ḿnh. 

 

 

Giai Đoạn Ba (1649-1651)

 

Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc Ngữ và việc ấn hành hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên của Đắc Lộ (7) . Hai cuốn ấy là: 

· Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem editvm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4° 

· Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4° . (Hết phần trích dẫn)


 

 

Toàn Quyền Đông Dương Martial Merlin (Bên phải h́nh)
 

Măi cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1924 (Giai đoạn Pháp thuộc), toàn quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) đă kư quyết định chính thức cho dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học, được phổ biến rộng răi toàn quốc. Sự ra đời và truyền bá chữ Quốc ngữ mọi nơi, trong các trường học, đă giúp cho người Việt Nam, dễ dàng học hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua sách báo, nâng cao nhận thức, dân trí phát triển cao hơn và nhanh hơn so với các nước trong vùng. 

 

Cũng nhờ từ đấy, người Việt, tiếng Việt đă thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng chính sách Hán hóa của Trung Hoa đă đô hộ nước ta trong suốt gần 1000 năm.


 

Học sinh trường Công giáo tỉnh Nam Định
 

Tinh thần sĩ phu (Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng những Nho giáo mà cả văn hóa Trung Hoa.  Việc băi bỏ Nho học và thay đổi chữ viết từ chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đă giúp Việt Nam chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc chữ Hán và văn hóa Trung Hoa.

 

V́ đắm ch́m lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, nên có người lầm tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh hùng, liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa Việt, lịch sử Việt. Các tác giả chữ Nho xưa thường dùng điển tích về những vua quan, anh hùng, thần thánh, phong tục, tập quán của Trung Hoa để làm mẫu mực cho người Việt. 

 

Nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn hóa Trung Hoa, nhiều người mới có cơ hội t́m thấy lại cội nguồn, trở lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đấy,  nền văn hóa dân tộc càng ngày càng được đề cao trong nền văn học Quốc ngữ, trong Sử sách giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần B́nh Trọng, Lê Lợi, Quang Trung mới là những anh hùng đích thực, những tấm gương sáng trong lịch sử của người Việt Nam. 

 

Nhưng bất hạnh thay cho đất nước Việt Nam ngày hôm nay, (Hiểm Họa Mất Nước) mà mọi người Việt Nam khắp nơi đang phải lên tiếng báo động khi nh́n thấy cầm quyền cộng sản Việt nam đă và đang đưa dân tộc ta trở về ṿng u tối của lịch sử. Nhiều lễ hội trang trí với h́nh thức, màu sắc nặng tính chất Trung Hoa, những phim ảnh Trung Hoa 24/24 giờ tràn ngập trên truyền h́nh, lập “viện nghiên cứu Khổng Tử”, mưu tính để chính thức đưa chương tŕnh tiếng Hoa (Hán ngữ) vào trường phổ thông toàn quốc nhằm mục đích Hán hóa người Việt trong nước hiện nay cùng với nhiều h́nh thức khác. Song song là việc “Bộ giáo dục” cho xuất bản, in ấn  trên “Sách Giáo Khoa Lịch Sử” với những h́nh ảnh bôi bác, bất kính, miệt thị, xúc phạm các bậc tiền nhân,tổ tiên của dân tộc Việt. Và c̣n nhiều chuyện đă xảy xa mới đây trong chủ trương Hán hóa, mà những ai đang quan tâm đến vận mệnh đất nước đều biết rơ. 


 

 

Trong những năm trước đây, để làm vui ḷng giặc Tàu trước những thất bại xâm lăng của giặc Tàu dưới thời Hai Bà Trưng. Bọn cầm quyền Việt cộng đă hèn hạ sai một đoàn văn công của chúng sang đóng giả vai Trưng Nữ Vương sang mếu thờ Mă Viện làm đủ tṛ để gọi là tạ tội!

 

Tội làm nhục quốc thể và thất lễ với Tiền Nhân - Liệt Nữ của dân tộc, dám mang Anh Hùng - Liệt Nữ của đất nước ra ngụy tạo làm tṛ mua vui, để vừa ḷng giặc ngoại xâm của đảng CSVN, th́ chỉ có xử theo cách của các triều Quân chủ Việt Nam trước đây mới mong hết tội của đảng CSVN mà thôi. Là lăng tŕ, chu di tam tộc hết bọn phản loạn đảng CSVN. (xin xem hai h́nh tiêu biểu dưới đây).

 


 

  Lễ Gọi hồn Mă Viện chứng giám Hai Bà Trưng sang chuộc tội ở Quảng Tây

(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt cộng tại Quảng Tây, Trung cộng)

 

Hai Bà Trưng dâng rượu chuộc tội với Mă Viện 

(Buổi lên đồng của đoàn văn công Việt cộng tại Quảng Tây, Trung cộng)

 

 

Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam

 

Trường Trung học Adran (Collège d'Adran) (3) Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài g̣n từ năm 1861 - 1887.

 

Trường ADRAN Sài G̣n, đến năm 1954 được chia thành 2 Trường Trung Học: Trung học Vơ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.


 

H́nh một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.

Chấm dứt  thời kỳ của nền giáo dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối học từ chương.

 

 

  Một lớp học trong giờ Địa lư.
 

H́nh Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.

 Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tư (1912)


 

Giấy Khai Sinh năm 1938 c̣n sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)

 

Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài G̣n, ngày 15/4/1865.


 

Trương Vĩnh Kư - Pétrus Kư (1837-1898) 


 

Khi nói đến chữ Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam th́ cũng không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh Kư, ông là người đầu tiên sáng lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên:  

 

Ông Pétrus - Trương Vĩnh Kư đă viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn như sau:

 

“…Thầy Kư dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người kư lục (thư kư) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ v́ có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà c̣n có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đă học đặng chữ Quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng th́ thuộc hết…”

 

Ông Trương Vĩnh Kư là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây, nên ông được:  - Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp. - Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse  http://www.larousse.fr/archives/pages/recherche.aspx?keyword=Truong%20Vinh%20Ky- Đứng vào vị trí “ Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử”  tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19. - Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam... (4)  Ông đă để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lư, từ điển và dịch thuật... Nhưng ngay sau tháng 4 năm 1975, khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, nhiều sách của ông đă bị cộng sản tiêu hủy trong chiến dịch “Bài Trừ Văn Hóa Đồi Trụy, Phản Động”, trường trung học Trương Vĩnh Kư bị đổi tên là Lê Hồng Phong, và tượng đài vinh danh ông đặt cạnh Nhà Thờ Đức Bà - Sài G̣n bị cộng sản phá hủy.


 

Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Kư cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.

http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=VA030117

  Măi đến thời gian gần đây, phần tượng lịch sử c̣n lại của ông được đem ra triển lăm "mỹ thuật" trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.


 

Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi băi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lư do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đă vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), B́nh Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết: “… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”

 

 

Các sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.


Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đă ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
 

Bài mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.

(Không có ǵ đau bằng người mất nước, cũng không có ǵ đau bằng người bị mất nước mà bàn việc nước! Tôi muốn viết đoạn sử mất nước này, nhưng đă bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ hồ không viết nổi chữ nào...)


 

Chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đă giúp dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết trong đời sống, theo dơi sát các tin tức thời sự, các chuyển biến thời cuộc chính trị trong nước và thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng chữ Quốc ngữ. 


 
 


Nền văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và hoạt động báo chí, khai sinh nên ḍng văn học lăng mạn Việt Nam. Nổi trôi trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc đất nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đă cống hiến nhiều vào sự phát triển Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Toàn bộ những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vẫn được lưu truyền tự do và được đưa vào trong giáo tŕnh giảng dạy Văn học tại các trường Trung học miền Nam sau 1954 măi cho tới 1975.

 

 Lớp học Mẫu giáo trong giờ Tập Viết, giáo dục miền Nam trước 1975 


 

Trước năm 1975, ở miền Nam hầu như không có tranh căi ǵ nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một vài tranh căi nhỏ về chữ I và Y , Lí do hay Lư do, quư vị hay quí vị …) hoặc có G hay không có G (sáng lạng hay xán lạn). Học sinh miền Nam khi học lên đến lớp 5 (Tiểu học), lớp 6 (Trung học) mà c̣n viết sai lỗi chính tả là một điều không thể chấp nhận được. 

 

Nhưng từ khi Việt cộng cưỡng chiếm được miền Nam, th́ Tiếng Việt, Chữ Việt đă bị  Việt cộng thay đổi rất nhiều, và đôi lúc trở nên thứ ngôn ngữ quái thai. Thực ra th́ chữ Việt đă được thay đổi từ lâu, ngay từ 1945 khi cộng sản c̣n ẩn núp dưới hai chữ Việt Minh đă dùng bạo lực,súng đạn để cưỡng đoạt, cướp đoạt chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần Trọng Kim. 

 

Không phải trong chế độ cộng sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người này lại chẳng có quyền hạn ǵ, trong khi đó th́ hầu hết bọn lănh đạo lại ngu dốt, độc tài, ngoan cố, bạo lực nên chúng muốn nói ngang nói ngược, người dân ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại ǵ mà lên tiếng, phê phán hay cải sửa để bị chụp mũ là phản động và bị bỏ tù cải tạo, mang hoạ vào thân.


Chính v́ thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm xuất hiện khắp nơi. ” Đường Kách mệnh “ , ” Giải Fóng”  Đó là  Chữ Vẹm, tiêu biểu “đỉnh cao trí tuệ” XHCN.

 


 

Măi tới khi người Việt tỵ nạn ở Hải Ngoại đă phải bàn căi khi xuất bản sách, báo, đọc tin và nhất là khi tiếp xúc, nói chuyện với nhiều người Việt trong nước sau này đi đoàn tụ gia đ́nh theo diện (ODP), các quân nhân và công chức của chế độ VNCH đi định cư ở Hoa Kỳ theo chương tŕnh (HO), những bà con này đă vô t́nh quen dùng lối nói, viết một số tiếng Vẹm trong những năm tháng sống tại quê nhà, v́ thế vấn đề xuất hiện tiếng Vẹm, chữ Vẹm ở hải ngoại đă được nêu lên và bàn luận rất nhiều. 

 

Thế nào là Tiếng Vẹm ? Thế nào là chữ Vẹm ?

 

Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ Việt. Nhưng v́ nó là chữ của Vẹm đặt ra Không Đúng Cách, Không Theo Một Nguyên Tắc Hay Quy Luật Nào Cả, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô nghê và tức cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm.

Với chủ trương “cải hoá” “nôm hóa” ngôn ngữ Việt, cầm quyền Việt cộng đă lạm dụng nhiều từ thuần Việt quá mức, trở thành thô tục như:

 

 ”Xưởng đẻ” Việt cộng đă từng dùng thay cho “nhà bảo sanh”, “nhà ỉa” dùng thay cho nhà “vệ sinh”, hay “linh thuỷ đánh bộ” dùng thay cho “thuỷ quân lục chiến” … và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa”.


 

Chiến dịch Bài trừ Văn Hóa Đồi Trụy ( Sài g̣n, ngày 21 tháng 5, 1975)


 

Việt cộng đă tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm, có thể v́ những lư do sau :

 

1) Việt cộng muốn tiêu hủy tất cả những ǵ mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy”

 

Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên mà Việt cộng làm, là bắt dân chúng phải tiêu huỷ tất cả các văn hoá phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc “ đồi trụy” “phản động”. Do đó, một số chữ của người Việt Quốc Gia miền Nam dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ, không dùng đến.

 

Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra ngoài (tiểu tiện hoặc đại tiện), xưa ngưới Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi là nhà cầu. Hai tiếng này nghe không được lịch sự cho lắm nên đă được chúng ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy vậy mà chỉ v́ muốn khác người, bọn cán cộng vô học đă bỏ đi và thay thế bằng hai chữ nhà ỉa.

 

Phải chăng đà tiến hoá theo chủ nghĩa xă hội của Việt cộng là như vậy ? Chẳng trách dân Việt Nam nay được bọn chúng cai trị, được bọn chúng “giải phóng” đă mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày một ngu si, dốt nát.

 

2) Việt cộng muốn chữ của chúng dùng phải khác chữ miền Nam chúng ta dùng.

Việt cộng, chúng chỉ muốn chữ chúng dùng phải khác người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt Quốc Gia dùng mà thôi, chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt” như đă từng tuyên truyền một thời gian sau 1975.

 

Điều này đối với Việt cộng rất quan trọng, nhất là trong thời chiến, v́ giúp cho chúng dễ phân biệt người đang sống tại vùng chúng đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng chúng kiểm soát, để chúng dễ khám phá ra những thành phần mà chúng cho là gián điệp, phản động. 

 

V́ vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch ra loại chữ mới mà không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng hay tối tăm, xuôi hay ngược, đúng hay sai. Có chữ đang là chữ Hán Việt, chúng đổi sang chữ Nôm. Có chữ đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng chẳng theo một nguyên tắc hay quy luật nào cả.

 

Thí dụ :

 

Chúng ta nói là “phát ngôn viên” th́  vẹm nói là: “người phát ngôn”

Chúng ta mượn tờ báo để đọc th́ vẹm nói là “trao đổi văn hóa”

Chúng ta nói là “nhà bảo sanh” th́ vẹm từng nói là “xưởng đẻ”

Chúng ta nói là “thăm viếng” th́ vẹm nói là “tham quan”

Chúng ta nói là “ghi danh” th́ vẹm nói là “đăng kư”

Chúng ta nói là “đá bóng” th́ vẹm nói là “bóng đá”

Chúng ta nói là “yếu điểm” th́ vẹm nói là “điểm yếu”

Chúng ta nói là “trở ngại” th́ vẹm nói là “sự cố”

Chúng ta nói là “xuất cảng” th́ vẹm nói là “xuất khẩu”

Chúng ta nói là “liên lạc” th́ vẹm nói là “liên hệ”

Chúng ta nói là “đồng ư” th́ vẹm nói là “nhất trí”

Chúng ta nói là “lo ngại” th́ vẹm nói là “quan ngại”

Chúng ta nói là “hiểu rơ” th́ vẹm nói là “quán triệt”

Chúng ta nói là “chỉ tiêu” th́ vẹm nói là “tiêu chí”.

Chúng ta nói là “viên chức” th́ nói nói là “quan chức”.

Chúng ta nói là “chuyển âm” thi vẹm nói là “lồng tiếng”.

Chúng ta nói là “dẫn giải” th́ vẹm nói là “thuyết minh”

Chúng ta nói là “ḿn nổ chậm” th́ vẹm nói “bom hẹn giờ”

Chúng ta nói là “xe hơi” th́ vẹm nói là ÔTÔ CON

Chúng ta nói là “Quan thuế” th́ vẹm nói là “Hải quan”.

( Hải  ..) được vẹm gọi chung cho cả sân bay, bến tàu và cửa khẩu đường bộ

Chúng ta nói là “máy phát thanh” hay (RADIO) th́ vẹm nói là “Đài”. 

Sau ngày 30 /4/1975 Bộ đội nào cũng muốn mua một cái “Đài” để mang về Bắc.Tiếc rằng ở SG chỉ có mỗi một cái Đài Phát Thanh duy nhất.

Chúng ta nói là “Trực thăng” th́ vẹm nói là “máy bay lên thẳng”

Thế th́ máy bay phản lực lên thẳng ngày nay, vertical take-off and landing (VTOL) cũng bay lên thẳng, th́ vẹm sẽ gọi là ǵ để phân biệt..?

 

V́ ngu dốt, nên khi vẹm đảo ngược hay thay thế bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là đúng hay sai nữa hoặc lẫn lộn ư nghĩa của chữ này với ư nghĩa của chữ kia chúng cũng không rơ.

 

Thí dụ 1 :

Chữ “đơn giản” mà đọc ngược lại là “giản đơn” hay “vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai một chút, c̣n có thể chấp nhận được v́ nghĩa của nó không khác nhau. 

 

Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa lại là “điểm yếu” th́ không thể chấp nhận được v́ nghĩa nó khác hẳn.

 

Nhưng v́ dốt nát, vẹm vẫn cố t́nh dùng chữ  ”điểm yếu” thay thế cho chữ “yếu điểm”.

 

Chúng ta biết, về văn phạm, chữ Hán giống chữ Anh ở một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con ngựa trắng, người Anh gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mă. 

 

Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là tĩnh từcó nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng. 

 

Nhưng v́ ngu dốt, Việt cộng chỉ muốn nói khác với chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng đă nôm hoá được chữ yếu điểm là chữ Hán. 

Thế c̣n nhược điểm th́ sao ? Nếu nói ngược lại th́ điểm nhược là nghĩa ǵ ? 

V́  ngu dốt lại nhưng hay nói chữ. V́ vậy mà ngày nay, nhiều nhà giáo Việt cộng đào tạo vẫn “hiểu” yếu điểm là điểm yếu và dậy lại học tṛ như vậy.

Tṛ chuyện qua Yahoo Messenger  với một em học sinh hiện ở SG:

 

Thay v́ dạy em nói “con người đó có tính nhân bản”  th́ giáo viên dạy em rằng “con người đó có tính nhân văn” 

 

Thí dụ 2 :

Chúng ta nói : 

“Xin các bạn cô gắng nhanh lên một chút v́ t́nh trạng gấp rút, cấp bách lắm rồi” 

 

Th́ vẹm lại nói: 

“Xin các đồng chí tranh thủ ,khẩn trương v́ tinh trạng khẩn trương rồi”. 

 

Chúng ta dùng chữ cố gắng cho mệnh đề thứ nhất và chữ gấp rút cho mệnh đề thứ hai v́ hai chữ này có ư nghĩa khác nhau. Nhưng đối với chúng th́ cố gắng cũng là khẩn trương và gấp rút cũng là khẩn trương.

 

Thí dụ 3 :

Sau khi tham dự một buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự : 

“Xin anh cho biết cảm tưởng (cảm nghĩ) của anh sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”. 

 

Nhưng nếu người hỏi là một văn nô Việt cộng, th́ chắc chắn hắn sẽ hỏi người tham dự : 

“Xin đồng chí cho biết cảm giác của đồng chí sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”. 

 

Đây chỉ là buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, đâu có phải là một buổi vật lộn, đấu đá ghê gớm ǵ mà hỏi cảm giác ?

 

Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ kép làm một khiến người đọc chẳng hiểu mô tê ǵ cả hoặc một chữ đă đầy đủ ư nghĩa rồi, chúng lại thêm một chữ nữa khiến chữ mới trở nên kỳ cục. 

 

Thí dụ :

Hùng vĩ và hiểm trở, vẹm ghép thành Hùng hiểm, 

Tương đương và thích hợp  vẹm ghép thành “Tương thích”

Quan tâm và lo ngại  vẹm ghép thành “quan ngại”

 

Tối ưu chẳng lẽ vẹm đổi thành Ưu tối ? Nên chúng thêm chữ “nhất” thành “tối ưu nhất” 

 

Thật lạ lùng ! Đă tối ưu rồi đâu cần phải thêm chữ  nhất vào làm ǵ? 

 

3) Để bóp méo và xuyên tạc Lịch sử VN như:


Việt minh dùng vũ lực,súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim th́ vẹm gọi là Cách Mạng Tháng 8 - 1945.

Cờ Vàng là cờ Truyền thống của Dân Tộc có từ bao đời th́ vẹm nói là Cờ 3 que,Cờ Ngụy.

 

Cờ đỏ sao vàng, gốc là của tỉnh Phúc kiến,Trung cộng hiện nay vẹm dùng th́ vẹm gọi là cờ tổ quốc. 

 

4) Không những chúng thay đổi CHỮ, chúng c̣n thay đổi cả NGHĨA. 

 

Thí dụ : 

 

Gài ḿn, pháo kích vào trường học, nhà dân, bắt cóc, thủ tiêu, khủng bố, vẹm gọi là “hoạt động cách mạng”

Để cướp chính quyền bằng vũ lực súng đạn, vẹm gọi là “giải phóng nhân dân”

Để cướp đất đai của các điền chủ, vẹm gọi là Cải cách ruộng đất.

Để bao che Đảng viên, cán bộ tham nhũng hối lộ th́ vẹm gọi là ”đi đêm”, ”móc ngoặc”, 

“có quan hệ xấu”, ”có hành vi tiêu cực” để giảm án hoặc tha tội.

Đề ch́m xuồng, xóa án th́ vẹm nói ”Đang trong ṿng điều tra”

Muốn cướp tài sản của các thương gia,  vẹm  gọi là Đánh tư sản mại bản.

Cấm người dân buôn bán,  vẹm  gọi là Cải tạo thương nghiệp.

Muốn trả thù quân nhân, công chức của chế độ cũ,  vẹm  gọi là Học tập Cải tạo.

Xe hơi (ôtô con) chạy xăng th́ chuyển ngược chạy bằng than th́ vẹm gọi là Cải Tiến

Người dân Vượt biên khi bị bắt th́ vẹm gọi là “thằng phạm, con phạm”...

Người dân Vượt biên nếu thoát th́ vẹm âu yếm gọi là Kiều bào, “Khúc ruột ngàn dặm”

Để cướp đất dân oan, vẹm  gọi là KHU QUY HOẠCH

Đập phá nhà dân oan, vẹm  gọi là “giải phóng mặt bằng”

Để sống sót, vẹm phải chuyển sang nền kinh tế tư bản th́ vẹm gọi là “Đổi mới”

Để biến dạng thành Tư bản Đỏ bóc lột  nhân dân th́ vẹm gọi là “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”


Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do th́  vẹm  gọi là tài liệu phản động,công cụ khủng bố. 

 

Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự do, dân chủ, vẹm gọi là phản động, có âm mưu lật đổ chính quyền.


Để điều tra và có thể tống giam, vẹm  gọi là Giấy mời.

 

Biểu t́nh chống Trung cộng xâm lược th́ vẹm nói là “có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị”

 

Biểu hiện ḷng yêu nước th́ vẹm nói là “kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước anh em'’.

Trung cộng xâm lược biên giới Việt Trung th́  vẹm chỉ gọi duy nhất 2 chữ là “kẻ địch”.

 

Tàu Trung cộng bắn giết ngư dân ta th́  vẹm  gọi là “Tàu Lạ Tấn Công”

“Ngư Dân Bị Tàu Lạ Bắn Chết”

 

Thay v́ lên tiếng * (phản đối) Trung cộng, th́  vẹm  lại dùng từ * (quan hệ) để giải quyết.

 

Tưởng niệm các chiến sỹ bị Hải quân Trung cộng sát hại, khi in trên báo vẹm gọi Hải quân    Trung cộng là “HẢI QUÂN NƯỚC NGOÀI”

 

Và c̣n nhiều không thể kể ra hết những chuyện sau 1975 cho đến hôm nay...
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hăy cùng nhau nh́n lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những h́nh dẫn chứng dưới đây:

 

Nhành Dẻ (H́nh trích từ Sách Giáo Khoa)

 

(Cấm Lái Xe ......Cài Quai)


 

Đèn Đỏ Được Đi Thẳng  !!! ???


 

 (XE THÔ SƠ)   


 

(... NẤU BÁNH CHƯNG , GIĂ BÁNH DÀY )


 

(Làng Văn Hóa Xóm ... ! ! )
 

(Thường Xẩy ra tai nạn)

 

(Xử Lư...)

(LĂNG PHÍ)
 

(BÁN HÀNG RONG...)
 

(Thích Quảng Đức)
 

(Nóng Ḷng chờ hỗ trợ)

 

(Sông Sâu Chớ Lội)
 

(Tấm Gương...)

 

HCM chưa bao giờ là Danh nhân Văn Hóa Thế Giới như VC tuyên truyềnThay v́ in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, th́ VC in sai là DOANH NHÂN.

 

Tóm lại, ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) là phương cách để con người giao tiếp, thông tin với nhau, hoặc diễn đạt tư tưởng của ḿnh cho người khác biết. Ngôn ngữ cũng là một phần của văn hoá, là linh hồn của một dân tộc. Trải qua thời gian và không gian, ngôn ngữ không ít, nhiều đă phải thay đổi để cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hoá của xă hội.  Những tác phẩm văn học, thơ ca, những bài hát, tranh tượng, h́nh ảnh nghệ thuật, của miền Nam trước 1975 một thời đă từng bị xé nát,đốt sạch trong chiến dịch bài trừ “Văn Hóa Đồi Trụy” của Việt cộng năm xưa.Ngày nay vẫn đang là những sách hiếm,quư trong tủ sách của những người dân Việt có tư duy, tŕnh độ văn hóa, nhận thức.

 

Việc thay đổi chữ cũ v́ thô tục, v́ thiếu nghĩa, v́ không trong sáng, tạo lập thêm chữ mới để thay thế những chữ cũ không c̣n hợp thời hay không có, là một việc nên làm và c̣n là một trách nhiệm để làm phong phú cho chữ Quốc ngữ. 

 

Nhưng nếu chỉ v́ mục đích chính trị ngông cuồng, tự đại, hay chỉ v́ ḷng tự ty mặc cảm ngu dốt muốn che đậy sự tụt hậu của hệ thống văn hóa, giáo dục hiện nay mà Việt cộng thay đổi từ ngữ một cách nhố nhăng, vô tội vạ, làm cho chữ Việt trong nước ngày nay càng trở nên thô tục, kỳ cục hoặc tối tăm, sai lạc ư nghĩa, th́ đó không những là một điều sai lầm mà c̣n có tội ác đối với dân tộc.

_____________________________________________________________

“Tuyệt vời của cuộc đời là sự khác biệt !” V́ thế nếu quư vị không muốn tiếp tục nhận, xin báo tuan.b.cao@gmail.com. Thành thật cám ơn.

 

Cao Bá Tuấn

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính