Vietnam War: Ai thắng ai thua?

 

Nguyễn Nhơn

 

 

Trích: "Phần trích được chiếu trong Tổng Lănh sự Mỹ mở đầu bằng mái đầu bạc của Bảo Ninh với một câu nhận định hùng hồn: Chiến tranh không ai thắng hay thua hết. Những ông không bao giờ đánh nhau mới bàn luận ai thắng thua.”… Và tiếp sau đó, là những câu chuyện mở ra từ những cánh cửa tinh thần đóng chặt lại sau hàng chục năm dài tham chiến. Bảo Ninh thú nhận khi ông trở về nhà sau trận mạc, mẹ ông im lặng không dám vui mừng v́ chợt nhớ ra người hàng xóm cũng có đứa con trai đi bộ đội - và bên ấy chưa có người về.

(Vietnam War: 'Cuộc chiến day dứt tất cả chúng tôi' Khải Đơn Gửi tới BBC từ Tp HCM)

 

Chỉ gần dây thôi, Huy Đức viết sách ( phe ta ) "Bên Thắng Cuộc ".

Mới mươi bửa trước đây thôi, sau khi cho ông viết sử nhấp thử dzụ thôi gọi "ngụy quân - ngụy quyền" thay bằng "Quân đội Sài G̣n - Chính quyền Sài G̣n" vừa chưa ráo mực, bọn trùm việt cọng giựt ḿnh ra lịnh cho đám tuyên giáo xúm nhau la làng: đảng ta "đánh cho Mỹ cút - ngụy nhào" chiến thắng dzinh quang, hổng có VNCH ǵ hết trơn. ( Mạc dầu hiện tại chạy tới chạy lui chầu chực Mỹ t́m cách né đ̣n chệt. Mặc dầu vẫn cứ tỉ tê "Khúc ruột ngoài ngàn dặm" để câu mỗi năm trên 10 tỉ đô).

 

Trước 1975, chiêu bài đuổi Mỹ giành độc lập, thống nhứt quốc gia c̣n xu mị được những tên trí thức u mê và bọn hèn nhát phản chiến thiên cọng.

 

Từ ngày "các bác dzô đây", cửa nhà không cánh mà bay. Bà mất v́ nhớ thương ông ngoại ( tù đày "cải tạo"). Mẹ mất v́ bạo bệnh. Chỉ c̣n thân cháu đây. Tuổi 16 thân thể trơ gầy mà cũng đem bán. Đong gạo được mỗi ngày khoảng một tô!

 

Từ bấy đến nay, 45 năm đă trôi qua

Ai thắng ai

Ai ngay ai gian

Ai giải phóng ai

Ai cướp giựt ai

Ai phản nước hại dân

Ai là Chành nghĩa Quốc gia

Ai Duy vật Tà ác Vô nhơn

Người dân Việt đều rơ biết

Sách có chữ:

"Được đất mà mất ḷng người là thua

Mất đất mà được ḷng người là thắng"

Ngày nay Chánh nghĩa Quốc gia VNCH

Sáng ngời ngọn cờ vàng khắp năm châu

Trên 70 nước có cộng đồng người Việt

Tỵ nạn việt cong vô thần vô Tổ quồc

Trong nước, bất chấp tù đày

tuổi trẻ ngạo nghễ phô trương

Ngọn cờ vàng truyền thống Dân tộc Việt

Rồi đây, chuyện Chánh nghĩa thắng gian tà

Một lần nữa được dân Việt xác quyết

 

 

AI THẮNG AI?

 

LỜI DẪN: Từ ngày Trung cộng công khai hóa cái “Công hàm bán nước” của bè lũ Hồ – Đồng, dư luận trong nước trải qua một bước ngoặc quyết định. Xác định một lần cho tất cả: Ai bán nước mới là “Ngụy”, mới là “ Phản động”. Vậy, Đảng cộng sản VN, gọi khinh thị là Việt cộng hay tệ hơn nữa là “Đảng Cướp Sạch VC” là lũ bán nước cầu vinh ĐÍCH THỊ LÀ NGỤY, LÀ PHẢN ĐỘNG.

 

Như vậy, từ đây Chánh _ Tà, Ngay – Gian phân biệt rạch ṛi.


Riêng phần Quân-Dân-Cán-Chánh VNCH đă từ lâu, dẫu lâm thân vào cảnh tù đày gian khổ, vẫn một dạ sắt son, vững tin vào Đại nghĩa Dân tộc: Gặp lúc vận nước suy vi, lũ cường quyền lẫy lừng áp bức. Nhưng “ Càn khôn hết bỉ rồi lại thái”, vận nước quyết có ngày hưng thịnh.


Gặp lúc thắng thế lẫy lừng, bọn tà quyền VC huênh hoang, khoác lác câu thiệu của tổ sư Cộng sản Đệ Tam Quốc tế của chúng: Giai cấp vô sản là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản.


Chúng thường kênh kiệu hỏi kháy những người tù Miền Nam: Ai thắng ai?
Giờ đây, câu trả lời ngày càng sáng tỏ.


Trong chốn lao tù, ḷng vẫn đinh ninh:


“ Đem Đại nghĩa để thắng Hung tàn, lấy Chí nhân mà thay Cường bạo”


AI THẮNG AI?


BÀI HỌC VIỆT NAM NĂM 1975

Chuyện kể đă lâu giữa vài anh em thân thiết trong trại tù C.S. ngoài núi rừng Việt Bắc. Hồiđó cứ năm, mười bữa, nửa tháng, họ buộc anh em chúng tôi viết kiểm thảo, nhục mạ cả tam, tứ đại nhà ḿnh, lại c̣n ra rả khoe “Bài học VN lớn lắm”, “Ta thắng Mỹ toàn diện”… Anh em uất lắm mà nghĩ thân tù tội đành cam chịu. Riêng tôi cố t́m lập luận phản bác, vừa “móc ḷ” họ chơi (dĩ nhiên chỉ th́ thầm giữa mấy anh em thân thiết) vừa tự an ủi ḿnh, vừa cổ động anh em đở nản chí.


Trong hoàn cảnh trên, trong tay chỉ có mấy tờ lá cải (mà cũng cũ lắm) thông tin một chiều, toàn tin chiến thắng. Tuy vậy nó cũng được việc, nếu cứtheo đúng câu cửa miệng của đồng bào ta hiện nay “Nói vậy mà không phải vậy” mà suy luận là được.


Vậy th́, ta nói:

 

1/ “Mỹ thắng Cộng sản toàn diện”


Về phương diện kỹ thuật: Chỉ nói riêng về pháo đài bay B52 thôi cũng thấy rơ “Không lực Mỹ thật sự đưa Bắc Việt trở về thời đồ đá”(nhắc lại câu nói của tướng tham mưu trưởng Không lực Mỹ lúc ấy). Khi VC giải nhóm anh em tôi ra Bắc vào cuối năm 76, nhà máy xi măng Hải Pḥng vẫn c̣n là một đống hỗn độn. Suốt dọc đường giải đi qua các làng mạc (HTX nông nghiệp) kể cả các vùng hẻo lánh tận biên giới ở Lào Cai, nơi nào cũng có một trái bom Mỹ cắt ra làm kẻng báo (cần nhớ là hàng ngàn quả bom mới có một quả lép).

Anh em chúng tôi tự sản xuất cuốc, xẻng, lưỡi cày để dùng, tốt hơn dụng cụ của đồng bào ngoài đó. Nhiều cày cuốc chỉ c̣n bằng bàn tay vẫnđược tiếp tục xử dụng.


Điều chua chát và đau khổ của VC mà càng ngày họ càng thấm thía là bị thiệt người, hại của như vậy mà không được Mỹ bồi thường cho cắc nào, dù dưới h́nh thức “viện trợ tái thiết”.


Chỉ cần 1 líp B52 rải thảm thôi, VC đă bị chận đứng trước cửa ngơ An Lộc (B́nh Long). Nguyên một Trung đoàn tùng thiết đến trễ, bị xoá sổ kể cả BCH. Nếu có đủ tài liệu c̣n có thể kể về nhiều loại vũ khí khác.


Về phương diện chiến thuật: Cho đến 1964 th́ chiến thuật du kích của VC phá sản, buộc VC phải đưa bộ đội chính quy vào Nam với vỏ bọc“bộ đội giải phóng” (sách báo VC viết về sau nầy). Nhưng bộ đội CS với chiến thuật “biển người”cũng bị quân lực Mỹ đánh bại. 6,000 Thủy quân Lục chiến Mỹ (1) phá vỡ ṿng vây của 3 Sư đoàn VC rút lui an toàn khỏi Khe Sanh. Tóm lại 2 mũi nhọn của “chiến tranh nhân dân” đều bị bẻ gẫy.


Tới đây chắc có vị sẽ tức ḿnh mắng rằng: Cái thằng cha nước mất nhà tan, thân bại danh liệt mà c̣n phét lác. Vậy xin khoan nóng vội, kiên nhẫn đọc tiếp xuống xem sao.


Về phương diện chiến lược: (câu chuyện khởi đầu trong trại tù, càng về sau thời cuộc càng thêm yếu tố nên viết luôn một mạch cho khỏi ngắt quăng).
Đến nay, tôi dám khẳng định:


Cuộc rút lui năm 75 của Hoa Kỳ là cuộc rút lui chiến lược.”

Cuộc di tản của quân dân chính VNCH năm 75 là cuộc di tản phối hợp”.


Đọc 2 câu có vẻ câu đối kể trên chắc có vị ph́ cười cho tôi, nếu không khùng th́ quá lếu láo. Tuy nhiên, nếu sau khi cười xong quư vị ngẫm nghĩ, nhớ lại các sự kiện kể sau, chắc có điều suy nghĩ:


Sau khi kư xong Hiệp định Paris, Kissinger tuyên bố: Chúng ta có khoảng thời gian vừa đủ” (chừng hơn 2 năm) để nghỉ ngơi. (Theo tôi là thời gian chuẩn bị rút bỏ miền Nam).


Khi VC sắp tràn vào Saigon, Quốc hội Mỹ chuẩn y ngân khoản khẩn cấp nhằm di tản khoảng 200,000 người (tất nhiên là quân chính và gia đ́nh) với ngân khoản 150 triệu Mỹ kim.


Cuộc rút lui đă dự liệu trước hơn 2 năm trời mà không gọi là “chiến lược” th́ gọi là ǵ?


Cuộc di tản chẳng những được cho phép mà c̣n được cấp ngân khoản thực hiện, đâu có thể là vô tổ chức, mà là có phối hợp, mặc dầu cập rập v́ chiến sự. Hồi trong tù, một số anh em tiểu đoàn trưởng miền Tây (QK4) vẫn ấm ức về nỗi trong tay c̣n đủquân số vũ khí mà phải đầu hàng. Có người c̣n nói văn vẻ: Chúng ta thua trận từ Hoa Thịnh Đốn. Câu nầy vừa đúng, vừa không đúng. Đúng là đúng về phiá VNCH lúc ấy. C̣n không đúng nếu đứng về phía Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ lúc ấy, bên trong bị dân chúng phảnđối, bên ngoài th́ Anh, Pháp bằng mặt mà chẳng bằng ḷng, các nước Bắc Âu chỉ trích. Do đó, họ không thể không rút bỏ miền Nam. Huống chi khi rút bỏ miền Nam, Mỹc̣n nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược lâu dài.


Đối nội: Mỹ chứng minh được cho dân chúng hậu quả rút bỏ miền Nam là Mỹ sẽ mất uy tín quốc tế, thiệt hại giao thương (có bài báo đăng: Chính quyền Carter chỉ tính thiệt hại trong mấy năm sau 75 mà lên tới 35 tỷ đô la). Nhân dân Mỹ ngày nay cũng biết rơ VC độc tài tàn bạo, bần cùng hoá nhân dân đến mức nào. Đến nỗi mấy chị cỡ Jane Fonda cũng hết đường múa mép.


Đối ngoại: Mỹ đạt được vị trí “nhứt hô bá ứng” ngày nay là nhờ rút bỏ miền Nam. Không cần biện luận dài ḍng, chỉ cần lược qua các sự kiện th́ thấy ngày càng rơ chiến lược Mỹ.


Năm 76 Mỹ phủ quyết đơn xin gia nhập LHQ của VC v́ lư do không hội đủ điều kiện nhân quyền. Mấy năm sau th́ Brezinski chánh thức phát động chiến dịch nhân quyền trên toàn thế giới. Cùng lúc đó Mỹ cài thế sao đó mà năm 79 VC buộc phải tràn vào Campuchia (v́ không thể đánh dằng dai măi ở biên giới VN). Bên nầy, Nga Sô đem Hồng Quân tràn qua Afghanistan. Trong lúc người ta đang hô hào nhân quyền mà 2 anh “cả đỏ”lờ khờ, đem quân xâm lăng ngay 2 nước láng giềng th́ có khổ không! Hai vụ nầy đem lại nhiều hậu quả lắm, mà toàn lợi cho Mỹ thôi.


Phía Đông Nam Á, Thái Lan bỗng dưng thấy ḿnh đang ở mặt trận tiền tiêu. Thái Lan mà lại rơi vào tay VC th́ thuyết Domino liền được chứng minh. Hoá cho nên ông Ăng Lê rét lắm v́ không khéo khối Common Wealth lại phải tự ḿnh đương đầu với CS (Mỹ rút rồi c̣n đâu!) mà 2 ông Singapore và Mă Lai vừa bé, vừa chỉ biết làm ăn đâu biết đánh giặc. Vậy cho nên bà Thatcher phải ráng chạy qua Thái chơ loa vào VN ca bài nhân quyền vậy. Pháp lúc nầy cũng rét, nên hết chê cái dù nguyên tử Mỹ. Tổng thống D’Estaing cũng chịu khó qua Đông Kinh, nh́n về phiá Tàu, VN kêu gào nhân quyền.


Tóm lại, sau sự kiện 2 nước đầu đàn khối CS xâm lăng 2 nước láng giềng, th́ các nước đồng minh với Mỹ hết c̣n phá bĩnh, mà tự ư xếp hàng sau lưng Hoa Kỳ. Các nước Bắc Âu thôi chỉ trích Mỹ.


Về phương diện kinh tế: Bài học nầy lư thú hơn cả. Nó cho thấy cái “thâm” của người Mỹ. Họ dùng thuật “gậy ông đập lưng ông”hay hơn cả người Á Đông. Hoa Kỳ với tiềm năng kinh tếvào bậc nhất như vậy mà chỉ chịu đựng được có 4-5 năm gánh nặng tiếp vận cho khoảng 500 ngàn quân chiếnđấu ở VN. Từ năm 69 đă bắt đầu rút quân rồi, màđến 73 cũng vẫn bị suy thoái kinh tế.


Kinh nghiệm như vậy nên họ nhử cho Nga và CSVN được đằng chân (Miền Nam) lấn đàng đầu xua quân tràn qua Campuchia và Afghanistan.


Cho dầu lính CS được cho ăn đói mặc rách đi nữa (tức phần tiếp vận về quân nhu nhẹ nhàng) chi phí về xăng dầu, súng đạn vẫn nặng. Cho nên trong ṿng 10 năm, gánh nặng chiến phí cho đoàn quân viễn chinh tại 2 nơi trên, đánh sập tiềm năng kinh tế mỏng manh của Nga Sô là dễ hiểu.


Có thực mới vực được đạo, kinh tế mà vỡ rồi, không bao biện được cho đàn em, tất nhiên khối CS Đông Âu ră bè.


2/ “Năm 75, Quân dân miền Nam bắt đầu chiến thắng VC từ căn bản.”

Bắt chước bài học lịch sử “Quang Trung Tam Tiến Bắc Hà”, thử diễn lại bài học năm 75 “Quân dân Miền Nam tam tiến Bắc Hà” xem sao.


Nhất tiến: Phá tan lời tuyên truyền Miền Nam nghèo đói, nhân dân bị áp bức, trong hàng cán binh VC.


Trước khi xua quân vào Nam, bọn cầm đầu CSBV nhồi nhét cho cán binh ư tưởng Miền Nam bị Mỹ bóc lột, áp bức nên nghèo đói, oán hận. Khi cán binh VC tràn vào Sài G̣n, bất ngờ loá mắt trước sự giàu có của nhân dân thủ đô miền Nam. (Rất nhiều giai thoại về sựngờ nghệch của cán binh VC về các tiện nghi của dân chúng Sài G̣n). Họ trực nhận ra đă bị cấp trên lừa dối trơ trẽn, đến nỗi sau nầy trở về Bắc, coi tù cải tạo, có anh bộ đội người sắc tộc đă nói văn vẻ như thế nầy (tất nhiên là nói lén với vài anh em tù thôi): “Các anh có cái ‘thiên đường’ của ḿnh mà không biết giữ, để đánh mất rồi!”


Nhị tiến: Đánh tan lời phao truyền trong nhân dân miền Bắc về tính hung dữvà thất học của quân chính VNCH.


Trước khi giải hàng trăm ngàn quân chính miền Nam đi đày ngoài Việt Bắc, để tránh việc đồng bào miền Bắc thắc mắc về việc tù đày lũ lượt nhưvậy, bọn công an CS loan truyền là bọn “ngụy” này thất học và hung dữ (chuyên mổ ruột moi gan nhân dân miền Nam) nên khuyên đồng bào tránh xa. Cùng lúc họ phao truyền trong Nam là đồng bào ngoài Bắc oán ghét “bọn Ngụy” đến nỗi có người phẫn uất ném đá vào họ.


Sư thật như vầy: Lúc đầu, đồng bào v́ bị dọa dẫm không dám đến gần anh em tù, chỉ đứng xa xa nh́n. Về sau nghe con em của họ cùng ở tù với anh em miền Nam (họ gọi là tù nhân ngoài Bắc là tù h́nh sự, trên 80% là thanh niên phản kháng không chịu nô dịch trong các HTX nông nghiệp hoặc xí nghiệp nhà nước) thuật lại là các bác các chú miền Nam, học cũng giỏi (ngoại ngữ, báo tường ǵ các chú cũng làm được) mà làm lụng ǵ cũng giỏi (trồng trọt tốt, làm mộc làm rèn cũng được) lại thêm hiền lành, sẵn ḷng giúp đỡ các em, cháu h́nh sự. Về sau, chúng tôi “lao động” trong xóm cũng được đồng bào thương mến, tiếc rằng đồng bào ngoài ấy c̣n nghèo đói hơn “tù cải tạo” nữa, nên không làm thế nào giúp đỡ vật chất được.


Tam tiến: Xác minh và thuyết phục nhân dân miền Bắc về “một Miền Nam Tự Do phồn vinh”.


Khi nghe con em cán binh vào Sài G̣n về thuật lại sự phồn vinh của miền Nam th́ đồng bào miền Bắc c̣n nửa tin, nửa ngờ. Kịp đến khi vợ con tù cải tạo được phép ồ ạt ra Bắc thăm nuôi chồng cha th́ sự thật phô trước mắt không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Đồng bào ngoài ấy biết rằng chúng ta đă bị cướp mất tài sản rồi. Thế mà những ǵ c̣n sót lại được gom góp để đi nuôi chồng cha cũng đủ cho đồng bào miền Bắc loá mắt. Hàng trăm kư quà thuộc loại “cao cấp”, người lớn đeo đồng hồ “một cửa sổ, hai cửa sổ”chẳng nói làm chi, đến trẻ em cũng có và…v.v chưa kể tính chi phí từ trong Nam ra tới trại, trả đủ thứ tiền từ tàu hỏa đến tiền thuê xe trâu không biết là bao nhiêu. Ngoảnh lại cảnh ḿnh, đồng bào đâm ra ngán ngẩm: nghèo đói, xác xơ! Đến nỗi ngay từ năm 79, có lần đội tôi được phái đi quét dọn khu chợ phiên trong xă, có dịp nghe đồng bào than thở hầu như công khai (Tôi điếc mà c̣n nghe được, tất nhiên bọn công an áp giải phải nghe được): “Đảng và nhà nước làm thế nào mà chỉ một mẹt hàng (lèo tèo 1 nhúm kẹo bột, bánh khảo và thuốc điếu cuốn sẵn) tí tẹo như thế nầy từ sáng đến giờ chưa bán được hào nào.”


Thậm chí có lần đồng bào thách thức ngay cả công an trại tù. Chị công an ỷ ḿnh, chất vấn bà bán hàng tại sao trứng vịt HTX bán 5 hào một quả, ở đây bán tới 1 đồng. Bà hàng: “Đây là chợ phiên…Muốn kiện bất cứ ở đâu, tôi cũng sẵn sàng đi hầu.”


Thật ra hồi ở tù, tôi trộ anh em về “Tam tiến” như vầy:

Nhất tiến: Cán binh VC vào Sài G̣n

Nhị tiến: Tù cải tạo ra Bắc

Tam tiến: Vợ con tù cải tạo ra Bắc

Vừa nghe vậy anh em la tôi “đồ khùng”.Kế nghe tôi diễn nôm đại khái như trên, anh em khen:“Tưởng thằng khùng thiệt, hoá khùng chơi.”


Anh em CSV/QGHC bạn ta,

 

Tôi mới qua đây, tạm ra mắt anh em bằng bài văn biền ngẫu lỡ như trên. Tuy vậy cũng có chút dụng ư. Khi tôi tặng các bạn (trong đó có tôi dĩ nhiên, v́ cũ mới ǵ cũng đều là di tản) “mỹ tự” “di tản phối hợp” là có ư muốn nhắc nhở anh em ḿnh vềnhiệm vụ “phối hợp” với Hoa Kỳ và Tây phương trước t́nh h́nh tan ră của khối CS hiện nay.


Hoa Kỳ và Tây phương đă phối hợp làm tan ră khối CS Đông Âu và hiện nay đang tiếp tục dùng chánh trị ngoại giao và áp lực kinh tế đánh tan đảng CS trong mỗi nước.


Vậy th́ nhiệm vụ cấp bách của “bộphận phối hợp” chúng ta hiển nhiên là phải bằng mọi cách tập hợp mọi lực lượng hải ngoại, để cùngđồng bào trong nước đấu tranh, đập tan đảng VC.


Hiện tại điều kiện tất thắng nằm trong tay chúng ta: Thiên thời (t́nh h́nh thế giới) đă có. Địa lợi dù tạm thời VC nắm giữ, nhưng lợi bất cập hại, v́ chỉ có đói thôi (Hiện nay VC đang kêuđói). Nhơn hoà (Ḷng dân cả trong Nam, ngoài Bắc đều bất phục VC). Nay nếu chúng ta không thắng được VC là do không biết “mưu sự” thôi. Vậy các tay tổ OM (Organization Method) cựu QGHC đâu, thử lộ diện xem sao. Hồi c̣n ở trong nước, tôi trông ngóng ra ngoài mong được tin thành lập “Mặt Trận Thống Nhất Hải Ngoại” quá chừng. Giờ qua đây thấy t́nh h́nh rời rạc của các đoàn thể chống Cộng ở đây xem ra nản quá, nên có ư định “chạy làng”. Nhưng đọc bản tin của Hội thấy anh bạn trẻ (Cường ĐS14) nhắc câu “Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách ” đâm ra động ḷng, nên viết bài kể trên.


Tuy nó có vẻ mộc mạc, nhưng trong đó gởi gấm chút ḷng hoài băo thiết tha về một quê hương Việt Nam sạch bóng Việt Cộng, tự do dân chủ và phú cường.

 

 

Nguyễn Nhơn

 

(1) TRẬN KHE SANH: Là trận đánh lừng lẫy trong Quân sử Việt – Mỹ
Ba Sư đoàn CS Bắc Việt tràn qua Vỉ Tuyến 17 Vùng cận sơn Bến Hải, bao vây một Lữ Đoàn TQLC Mỹ.

 

Cao vọng của Vơ Nguyên Giáp là muốn tái hiện một ĐIỆN BIÊN PHỦ với Mỹ.
Chúng dở lại mửng cũ: ĐÀO ĐỊA ĐẠO luồn sát vị trí TQLC Mỹ.


Lần nầy chúng không dùng đông đảo dân công lộ liểu nhờ có máy đào đất của Nga nhưng vẫn bị phát hiện.


Về sau có dư luận xầm x́ là Mỹ thả chuột bị dịch tả vào địa đạo nên 3 SĐ/ CS bị tê liệt nên Quân Mỹ rút lui an toàn.


Có một điều người ta mắc cở, bưng bít măi về sau mới chịu công khai hóa.
Đó là hành động can trường của một TIỂU ĐOÀN 37 BIỆT ĐỘNG QUÂN VNCH.


Khi bị bao vây, TĐ. nầy chiến đấu anh dũng giữ vững cạnh sườn Lữ đoàn Mỹ.

Khi lui binh BĐQVN can trường đoạn hậu, bảo đảm cuộc lui binh an toàn.


 

On Saturday, April 25, 2020, 03:14:14 PM PDT, Hoang Le

<levhoang57@gmail.com> wrote:

 

Con đường Chính trị của người Mỹ họ đi, chúng ta không đủ tŕnh độ để hiểu tới.

Nh́n là vậy , nhưng không phải là vậy.

Cũng có thể là bắt tay với Tàu để gây chia rẽ Nga- Tàu.

Kết quả là Liên sô sụp đỗ là được rồi.

Lê văn Hoàng


 

Mời đọc một tài liệu hay về bí ẩn của Hiệp định Paris

 


 

AI CUNG BIET CHINH NIXON VA KISSINGER LA 2 NGUOI DA BAN DUNG VNCH CHO  CONG SAN DE LAY LONG TRUNG CONG


 

Là một quốc gia có diện tích không nhỏ, dân số cũng đông có hạng và chiếm ngữ một địa thế đắc địa ở Đông nam á thay v́ nếu ở xa thằng Tàu th́ dân tộc chúng ta đă có được một đời sống tương đối tốt đẹp hơn trăm vạn lần.

 

Đọc xong bài này tôi cứ nghĩ mọi cơ hội tốt đẹp cho VN té ra lại chỉ bị một anh H Kiss xoay như xoay váy, sau khi qua Liên Xô xin họ giảm quân viện cho VN(điều này thực ra LX lại tăng thêm cho HN để dứt điểm Nam Việt), rồi qua Tàu ăn óc khỉ và tay gấu bàn giao Đông Dương và Biển Đông cho Tàu, hắn vào Nam ép TT Thiệu kư văn bản hiệp ước ḥa b́nh vô điều kiện, lại nhăy ra Hà Nội dự kư bản mật ước bồi hoàn sau hậu chiến 4,3 tỹ đô...

 

 

Đằng sau Hiệp Định Paris, mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng

 

Bùi Anh Trinh

 

 

Năm 1973, ngày 7.2, mười một ngày sau khi kư kết Hiệp Định Paris, Kissinger lên đường đi Hà Nội. Tại Hà Nội Kissinger trao cho Phạm văn Đồng một công hàm của Tổng Thống Nixon, trong đó quy định thể thức thanh toán số tiền bồi thường chiến tranh cho Hà Nội là 4,75 tỷ USD. Sau đó Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phạm văn Đồng giao cho Kissinger mang về cho Tổng Thống Hoa Kỳ một công hàm hoan nghênh tinh thần Mật ước của Nixon và hứa sẽ thi hành nghiêm chỉnh Mật ước này. Như vậy là Mật ước đă có đủ chữ kư của cả hai người cầm đầu chính phủ. (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris)

 

Nguyên văn Mật ước:

Ngày 1 tháng 2 năm 1973.

Tổng Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đă nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam được kư kết tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của ḿnh.

 

Những nguyên tắc đó là:

 

1.- Hoa Kỳ sẽ đóng góp xây dựng lại Bắc Việt sau chiến tranh mà không cần một đ̣i hỏi chính trị nào.

2.- Con số cam kết sơ khởi là 3,25 tỷ Dollars viện trợ không hoàn lại trong ṿng 5 năm. Những h́nh thức viện trợ khác (viện trợ phát triển kinh tế) sẽ được nghiên cứu sau.

 

3.- Công việc điều hành kế hoạch viện trợ sẽ do một Ủy Ban được đặt tên là Ủy ban hỗn hợp kinh tế Hoa Kỳ-Bắc Việt. Ủy ban sẽ được h́nh thành trong ṿng 30 ngày sau khi kư Hiệp Định.

 

4.- Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các chương tŕnh cho việc đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến hành trên cơ sở những yếu tố sau đây:

a/ Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của chiến tranh gây nên.

b/ Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.

 

5.-) Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện ngang nhau của mỗi bên. Ủy ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lư chương tŕnh đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố gắng hoàn thành sự thỏa thuận này trong ṿng 60 ngày sau khi được thành lập.

 

6.- Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, b́nh đẳng và cùng có lợi. Những trụ sở của Ủy ban sẽ đặt tại một nơi sẽ được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.

 

7.- Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc nói trên sẽ thúc đẩy những quan hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và sẽ góp phần vào việc bảo đảm một nền ḥa b́nh vững chắc và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này phù hợp với tinh thần của Chương VIII của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam kư tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.

 

Điều ghi chú về những h́nh thức viện trợ khác:

Về những h́nh thức viện trợ khác, việc nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương tŕnh thích hợp có thể là vào khoảng 1 đến 1,5 tỷ đô la tùy theo nhu cầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa  về lương thực và hàng hóa khác.

 

Hiểu biết về Chương tŕnh xây dựng lại kinh tế:

Có sự hiểu biết là những đề nghị của ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong công hàm của Tổng Thống gửi Thủ Tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến Pháp của ḿnh” (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ-Kissinger Tại Paris).

 

Tại sao cả hai bên đều không thi hành mật ước ?

 

Như vậy những ǵ hai bên thương lượng với nhau suốt 4 năm không nằm trong Hiệp Định, mà nằm trong Mật ước. Và hai bên kư với nhau Hiệp Định Paris chỉ là che mắt thế gian, c̣n Mật ước mới là kết quả thương lượng thực giữa hai bên.

 

Khoan nói tới hai bên đă mật cam kết với nhau những ǵ, nhưng tại sao lại không giữ lời giao ước ? Đây là một giao ước mật chứ không phải là giao ước công khai. Một khi giao ước mật được kư kết th́ phải được tôn trọng tuyệt đối, gần như là lời thề thiêng liêng. Nếu có một bên phản bội th́ bên kia chỉ cần tung mật ước ra trước ánh sáng th́ bên vi phạm sẽ trở thành kẻ lừa đảo.

 

Măi đến ngày 19.5.1977 Tổng Thống Hoa Kỳ Cater mới loan báo rằng sau khi kư Hiệp Định Paris 1973, Tổng Thống Nixon đă có kư với Hà Nội một mật ước riêng. Trong đó cam kết bồi thường 4,75 tỷ USD cho Hà Nội.

 

Sau loan báo của Tổng Thống, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố đó chỉ là lời hứa của người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, cho nên quốc gia Hoa Kỳ không có trách nhiệm phải thi hành cam kết đó. V́ vậy dư luận hiểu rằng chính phía Hoa Kỳ đă không thi hành đúng như cam kết, nghĩa là sau Hiệp Định Paris Hoa Kỳ không chung cho Hà Nội một đồng nào trong số 4,75 tỷ.

 

Vấn đề được đặt ra là tại sao Nixon lại không thi hành những điều mà ông nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ  để viết ra ? Trong khi đó Hà Nội cũng không đưa mật ước ra để tố cáo Nixon thất hứa ? Nhất là khi Nixon c̣n tại chức ? Đặc biệt theo như nhân dân Hoa Kỳ  được biết một cách không chính thức th́ Hoa Kỳ chỉ phải chung cho Hà Nội 3,25 tỷ đô la mà thôi, tại sao giờ đây chính phủ Cater lại loan báo là 4,75 tỷ.

 

C̣n về phía Hà Nội tại sao họ cứ một mực tố cáo Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp Định mà không công khai hay bán công khai tố cáo Nixon không giữ lời hứa về số tiền tái thiết Bắc Việt? Nhất là khi Nixon c̣n tại chức?

Ch́a khóa giải mă

 

Năm 1998 chính phủ cộng sản Việt Nam (Phan văn Khải) đă cho công bố toàn bộ biên bản các cuộc mật đàm giữa Lê đức Thọ và Kissinger bằng một cuốn sách của Đại Tá cộng sản Việt Nam Lưu văn Lợi, ông là chuyên gia thương thuyết trong phái đoàn Hà Nội tại Paris. Cuốn sách có tựa đề là “Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris”, sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1998 nhưng phổ biến hạn chế, đặc biệt không cho lưu hành trong nước.

 

Đến tháng 10 năm 2002 nhà xuất bản “Công an Nhân dân” mới in lại và xuất bản trong nước. Trong chương cuối có đăng nguyên văn bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng, được Nixon kư ngày 1.2.1973, nghĩa là 4 ngày sau khi hai bên kư kết Hiệp Định Paris.

 

Bản mật ước gồm có 7 mục, trong đó 3 mục đầu quy định thể thức chi trả 3,25 tiền bồi thường chiến tranh và 4 mục sau quy định thể thức viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội, bước đầu là 1,5 tỷ hàng hóa và lương thực (viện trợ với lăi xuất ưu đăi). Cơ quan điều hành hệ thống viện trợ bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ tại Hà Nội sẽ được thành lập xong trong ṿng 30 ngày sau khi Hiệp Định Paris được kư kết. Và hệ thống sẽ đi vào hoạt động trong ṿng 60 ngày sau khi được thành lập, nghĩa là đồng đô la viện trợ đầu tiên sẽ đến Hà Nội 1 tháng sau khi người tù binh Hoa Kỳ cuối cùng đă được thả (Tù binh được thả trong ṿng 60 ngày).

 

So sánh thời gian trao trả tù binh và thời gian bắt đầu chung viện trợ th́ có thể kết luận được rằng “Nếu Hà Nội thả hết 391 tù binh Hoa Kỳ  xong rồi th́ Hoa Kỳ mới thưởng bằng tiền viện trợ” Đây là lời hứa của bên chiến thắng: Hà Nội phải thả hết tù binh vô điều kiện, thả xong tới người cuối cùng một cách vui vẻ th́ mới được chung 4,75 tỷ. (Thường th́ giao ước bồi thường và trao trả tù binh được thực hiện trên nguyên tắc: Đồng tiền đầu tiên được đưa ra cùng với người tù đầu tiên được thả, và đồng tiền cuối cùng được đưa ra cùng với ngày người tù binh cuối cùng được thả. Thêm một bằng chứng chứng minh Hà Nội đă đầu hàng sau cuộc dội bom).

 

Vậy th́ ai đánh lừa ai ?

 

Sự kiện tù binh phải được thả hết trước khi Hà Nội nhận được viện trợ chứng tỏ Hoa Kỳ không có lư do ǵ để sợ Hà Nội phản bội mật ước. Có chăng là Hà Nội sợ Hoa Kỳ lấy xong tù binh rồi quỵt nợ không chung tiền. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, Nixon lấy được toàn bộ tù binh nhưng không chung được 1 đồng như đă hứa. Cái ǵ khiến cho Nixon và Kissinger trở thành những tay lừa đảo hạng bét ?

 

Người ta xem lại biên bản từng cuộc mật đàm để truy nguyên hoàn cảnh phát sinh ra bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng. Hóa ra ban đầu, trước trận thả bom 12 ngày đêm th́ mật ước đă được soạn trước nhưng chỉ có 3 mục đầu, nghĩa là bồi thường 3,25 tỷ. Số tiền này đă được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ.

 

Nhưng sau khi Hà Nội thiếu điều kéo cờ trắng trong cuộc dội bom 12 ngày đêm th́ hai bên mới ngồi lại và thêm vào 4 mục sau, có thêm 1,5 tỷ viện trợ lương thực và hàng hóa (Đây là số tiền cho vay để phát triển kinh tế chứ không phải là viện trợ nhân đạo không hoàn lại). Đồng thời có thêm một kế hoạch viện trợ phát triển kinh tế về lâu về dài cho Bắc Việt.

 

So sánh mật ước 3 mục (trước cuộc dội bom) với mật ước 7 mục (sau cuộc dội bom) th́ sau cuộc dội bom Hà Nội đă được Nixon thưởng thêm bằng cam kết sẽ viện trợ phát tiển kinh tế cho Hà Nội như là viện trợ cho một nước đồng minh, giống như viện trợ cho Nam Hàn sau Hiệp Ước Bàn Môn Điếm hay viện trợ cho Sài G̣n sau Hiệp định Genève.

 

Suy ra Hà Nội đă âm thầm trở thành đồng minh của Hoa Kỳ sau cuộc dội bom, nghĩa là thay v́ đầu hàng th́ Hà Nội đă xin hồi chánh.

 

Đầu hàng là buông súng và chịu mọi sự phán xét của kẻ thù, c̣n hồi chánh là ly khai với phe cọng sản và trở thành đồng minh của phe tự do. Lê Duẩn quyết định hồi chánh th́ có lợi cho Bắc Việt nhiều hơn so với đầu hàng. Ông ta có quyền ly khai khỏi phe cộng sản bởi v́ Trung Quốc và Liên Sô đă phản bội ông ta trước.

 

C̣n nếu như ông ta đầu hàng th́ không có ai giúp ông hồi phục kinh tế sau chiến tranh mà trái lại ông c̣n giữ nguyên quyển sổ nợ chiến phí của Liên Sô và Trung Quốc. Vả lại chạy theo Mỹ th́ tất cả dân Việt từ Nam chí Bắc đều hoan hô ông, c̣n như tiếp tục chạy theo hai đàn anh đểu cáng là Trung Quốc và Liên Sô th́ dân tộc măi măi trong tăm tối và đói khát như Bắc Hàn hay Cu Ba ngày nay.

 

Tại sao không bắt Hà Nội đầu hàng mà lại cho hồi chánh ?

 

Ngay từ những ngày đầu có cuộc mật đàm Kissinger-Lê đức Thọ th́ Quốc Hội Hoa Kỳ đă mặc nhiên cho phép Kissinger có quyền bỏ tiền ra lấy tù binh trở về. Vấn đề là Kissinger tŕnh diễn làm sao cho việc chung tiền không có vẻ là Hoa Kỳ bại trận. V́ vậy Nixon vẫn hợp pháp khi Kissinger soạn ra tờ “Mật ước 3 điểm” hứa chung 3,25 tỷ cho Hà Nội. Số tiền đă được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ và ngay cả dân chúng Hoa Kỳ cũng được biết một cách không chính thức.

 

Thế nhưng 4 mục sau (cam kết thiết lập hệ thống viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội) là một việc làm phi pháp, bởi v́ không xin phép Quốc Hội Hoa Kỳ, “lén thỏa thuận với đối phương”. Vả lại viện trợ kinh tế dài hạn chỉ được dành cho quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ chứ không thể nào dành cho “kẻ thù”.

 

Ngoài ra những đối thủ của Nixon trong Đảng Dân Chủ cũng có thể cáo buộc rằng cái giá để lấy tù binh trở về là công cuộc viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội. Cũng là phạm pháp v́ không xin phép Quốc Hội, nhưng nếu có xin phép th́ Quốc Hội cũng sẽ bác bỏ bởi v́ viện trợ kinh tế chỉ được cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong khi Hà Nội đang là quốc gia thù địch.

 

Sự kiện Nixon lẫn Hà Nội giữ kín tờ mật ước cho tới 1977 chứng tỏ ngày đó hai bên đồng thỏa thuận “Hà Nội bí mật hồi chánh”. Hà Nội có quyền ly khai khỏi thế giới cọng sản là do Trung Quốc và Liên Sô tráo trở, cả hai đă ngưng cung cấp vũ khí để buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh và trả tù binh cho Hoa Kỳ.

 

Thế nhưng tại sao Nixon lại giấu nhẹm tin Hà Nội hồi chánh ? Câu trả lời rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bởi v́ mối thù giữa Hà Nội và nhân dân Hoa Kỳ đang c̣n nóng hổi, Quốc Hội và dân chúng Hoa Kỳ muốn Hà Nội phải đầu hàng chứ dứt khoát không có chuyện Hà Nội tự nhiên trở thành đồng minh của Hoa Kỳ mà chẳng phải trả giá cho tội lỗi của họ.

 

Vậy th́ tại sao Nixon không buộc Hà Nội phải đầu hàng đúng theo ước vọng của dân chúng Hoa Kỳ ? Câu trả lời là Trung Quốc và Liên Sô sẽ không chấp nhận. Họ đă thỏa thuận trói tay Hà Nội để Hà Nội ngưng theo đuổi chiến tranh chứ không phải để cho Hoa Kỳ tha hồ đánh Bắc Việt đến nỗi phải đầu hàng. Thế giới sẽ nguyền rủa hai đàn anh đểu cáng.

 

Nếu Hà Nội đầu hàng v́ trận dội bom 12 ngày đêm th́ đương nhiên Liên Sô và TC sẽ công bố cho thế giới biết rằng trong năm 1972 đích thân Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để năn nỉ họ thôi viện trợ vũ khí cho Hà Nội để Hà Nội chấm dứt mộng theo đuổi chiến tranh, đem lại ḥa b́nh cho nhân dân Việt Nam và cho toàn thế giới chứ họ không ngờ là Hoa Kỳ đă lợi dụng việc này để tấn công buộc Hà Nội phải đầu hàng.

 

Hậu quả chắc chắn sẽ kéo theo sự căng thẳng trở lại giữa Hoa Kỳ và thế giới cọng sản. Và dư luận thế giới sẽ coi Hoa Kỳ như là một kẻ tráo trở vô liêm sỉ, bởi v́ rơ ràng là Hoa Kỳ đă bị cộng sản Việt Nam đánh bại nhưng lại năn nỉ Liên Sô và Trung Quốc trói tay Hà Nội để Hoa Kỳ tiếp tục hạ gục Hà Nội.

 

V́ vậy mà Nixon đă không kịp trở tay khi nghe Hà Nội đề nghị hồi chánh, ông chỉ c̣n có nước bí mật giúp đỡ Hà Nội dưới h́nh thức viện trợ bồi thường chiến tranh. Sau đó là hiệp thương trao đổi hàng hóa giữa hai miền Nam Bắc (theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Cuối cùng là tổng tuyển cử lựa chọn chế độ (Cũng theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Dự trù đến lúc tổng tuyển cử th́ Hà Nội sẽ sắp xếp cho dân miền Bắc bỏ phiếu quyết định theo chế độ tự do. Lúc đó Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa sẽ không nói ǵ được. Và nhân dân Hoa Kỳ không thể nào từ chối.

 

*(Ghi chú: Thực ra bức mật thư đă được Hà Nội tiết lộ dần dần cho các dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ từ năm 1975 nhưng những người này đă nhém đi v́ không muốn chung tiền cho Hà Nội. Họ viện lư do Hà Nội đă không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris:

 

Tháng 12 năm 1975 phái đoàn của Hoa Kỳ do Dân Biểu Montgomery dẫn đầu đến Hà Nội đă được xem.

 

Ngày 15.1.1976 phái đoàn do Thượng Nghị Sĩ McGovern dẫn đầu đến Hà Nội đă được xem.

 

Ngày 14.4.1976, báo Nhân Dân của Hà Nội đăng một phần Mật ước với lời công kích chính phủ Mỹ (Đăng 3 điều đầu, giấu 4 điều sau).

Ngày 3.5.1977, Phái đoàn đàm phán b́nh thường hóa quan hệ giữa cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ tại Paris do Holbrooks dẫn đầu đă được thứ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phan Hiền cho xem.

 

Ngày 6.5.1977, báo Nhân Dân của Hà Nội cho đăng một phần Mật ước và một phần Công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng cùng với lời chỉ trích chính phủ Mỹ “chà đạp luật pháp quốc tế”. Dân Biểu Hoa Kỳ Lester L.Wolff đ̣i đưa Nixon ra ṭa nếu Nixon không đưa ra bản Mật ước.

 

Ngày 14.5.1977 Nixon viết thư trả lời Wolff rằng chẳng có cam kết viện trợ nào cả.

 

Ngày 19.5.1977, trước sức ép của Wolff, chính phủ Cater loan báo ngày 1.2.1973 Nixon có kư một Mật ước với Hà Nội với con số 4,75 tỷ USD (nghĩa là cho lộ luôn 4 điều sau mà Hà Nội đă giấu).

 

Ngày 21.5.1977 bộ ngoại giao Hà Nội cho công bố toàn văn Mật ước của Nixon và công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng).

 

…oOo…

 

ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN VĂN THIỆU

 

Bùi Anh Trinh

 

Năm 1973, ngày 8.1, sau trận dội bom Mùa Giáng Sinh, Ḥa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên họp là bài diễn văn của Lê đức Thọ, ông ta công kích Hoa Kỳ lật lọng leo thang chiến tranh. Kissinger không c̣n vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp trước. Buổi chiều hai bên tiếp tục soạn thảo những chi tiết của văn bản hiệp ước mà trước đây đă bị bỏ dở.

 

Ngày 9, 10, 11 và 12.1, hai bên hoàn thành văn bản của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi chiều Kissinger và Sullivan họp với đoàn đàm phán Việt Nam Cộng Ḥa để thông báo nội dung toàn bộ văn bản Hiệp Định. Vấn đề c̣n lại là Tổng Thống Thiệu có chấp thuận hay không.

 

* Chú giải: Đoạn tường thuật trên đây được ghi lại trong biên bản của bộ ngoại giao Hà Nội, do Lưu văn Lợi công bố năm 1998. Đọc qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ rằng đây là một cuộc họp sau cuộc dội bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.

Hẳn nhiên là phải có nhiều biến cố và nhiều thượng lượng đă xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm dứt. Thế nhưng biên bản buổi họp được ghi lại như không hề có ǵ xảy ra. Chứng tỏ Lưu văn Lợi đă buộc phải giấu kín những trao đổi đă xảy ra giữa Kissinger và Lê đức Thọ trước khi hai ông bước vào phiên họp ngày 8.1.1975, tức là từ ngày ngưng ném bom 29.12.1972.

 

Những giấu kín đó đă làm tốn rất nhiều giấy mực của những nhà nghiên cứu thời cuộc, người ta cho rằng Hà Nội đă chịu đầu hàng trước khi cuộc dội bom chấm dứt. Điều này sẽ được đưa ra ánh sáng 5 năm sau cái chết của Kissinger.

 

 

Năm 1973, ngày 14.1, Tướng Alexander Haig đến Sài G̣n với tối hậu thư của Nixon cam kết “Chúng tôi sẽ không nh́n nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc nào trên mănh đất miền Nam. Chúng tôi sẽ phản ứng mănh liệt trong trường hợp Hiệp Định bị vi phạm…”, “…Tôi quyết định sẽ tiếp tục viện trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Ḥa”. Tối hôm đó họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Tổng Thống Thiệu tŕnh bày nội dung tối hậu thư của Nixon. Đa số mọi người đồng ư nên kư vào v́ đă có cam kết Mỹ sẽ tham chiến trở lại để đổi lại việc quân Bắc Việt có thể vi phạm hiệp ước.

 

Ngày 17.1, Tổng Thống Thiệu gửi thư phúc đáp cho Tổng Thống Nixon trong một phong b́ dán kín và nhờ Haig chuyển về cho Nixon khi đến Hoa Kỳ. Nhưng Haig về đến Ṭa Đại Sứ th́ xé phong b́ để chuyển bằng diện tín về Washington. Trong thư Thiệu cho biết cần một cam kết rơ ràng hơn nhằm bảo đảm cho việc ông ta chấp nhận quân Bắc Việt ở lại miền Nam (Hồi kư của Alexander Haig).

 

Ngay đêm đó, trong lúc Haig c̣n ở tại Sài G̣n, Đại Sứ Bunker chuyển đến Tổng Thống Thiệu một điện văn của Nixon, cho biết sau ngày kư hiệp ước, dự trù vào ngày 27.1, Phó Tổng Thống Agnew sẽ đến Sài G̣n với một bản mật ước của Tổng Thống Nixon, trong đó nêu rơ ba vấn đề:

1.- Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.

2.- Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lănh thổ của miền Nam.

3.- Hoa Kỳ sẽ phản ứng mănh liệt nếu bản Hiệp Định bị vi phạm. Ngoài ra: “Tôi muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước, và sự cam kết của Hoa Kỳ” (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập).

 

Trên nguyên tắc, đây cũng là điều kiện để h́nh thành Hiệp Định, nếu không có điện thư cam kết đó th́ Tổng Thống Thiệu đă không kư vào Hiệp Định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn Tiến Hưng đưa lên sách The Palace File, bản tiếng Việt trang 663. V́ vậy sau này cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ bội ước.

 

Không phải Tổng Thống Nixon chủ tâm lừa đảo, sở dĩ ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là v́ Hà Nội đă đầu hàng. Không thể nào có chuyện Hà Nội gây chiến trở lại, họ không c̣n súng đạn, không c̣n gạo, và đang cần tiền viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ (Tiến bồi thường chiến tranh). Không ngờ là sau này t́nh thế đă biến chuyển khác hẳn với những toan tính của Nixon và Kissinger.

 

Năm 1973, ngày 16.1. Tài liệu của CIA: “Ngày 16/1 Haig đến Sài G̣n với một thư tay khác của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu rằng nếu vẫn không kư ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản ḥa b́nh. Thiệu vẫn hoăn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.

Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội Đồng nghe. Sau đó Hội Đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định. Việc kư kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng “trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải kư theo ư Hoa Kỳ, nhưng ông đă làm những ǵ cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.”

Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thông báo quyết định kư. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc gậy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và kư Hiệp Định th́ tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ư với sự miêu tả của Hương (CIA and The Generals, bản dịch của Trần B́nh Nam).

 

Theo như đoạn tài liệu này của CIA th́ Haig đến Sài G̣n ngày 14 rồi trở lại Hoa Kỳ, sau đó ngày 16 mới trở lại với thư cam kết của Tổng Thống Nixon. Nhưng thực ra theo hồi kư của Haig th́ thay v́ đem thư của Thiệu về Hoa Kỳ th́ ông và Bunker đă mở thư (do lệnh của Nixon) và chuyển bằng điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết bằng điện cho Bunker để Bunker chuyển cho Thiệu.

 

Tài liệu của CIA ngày đó có hơi khác so với hồi kư của Tướng Haig, sự thực là Haig đă mở thư tại Sài G̣n và nhận điện thư của Nixon rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về Hoa Kỳ. Haig và Bunker không cần phải cho CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này của CIA chỉ là nhờ thâu thập qua thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng Khiêm không hề biết là Haig không có về Hoa Kỳ.

Đây mới chỉ là bức điện thư báo trước, coi như bản nháp của mật ước, c̣n mật ước có chữ kư của Nixon sẽ được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Agnew đem đến Sài G̣n sau khi Hiệp Định ngưng bắn được kư kết.

Kư kết ḥa ước

 

Năm 1973, ngày 23.1, lúc 10 giờ 45 sáng, bản Hiệp Định Paris 1973 được Kissigner và Lê đức Thọ kư tắt. Sau khi kư xong hai ông trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ niệm.

 

Năm 1973, ngày 27.1, buổi sáng, 4 bên tham chiến cùng kư kết Hiệp Định có liên quan đến 4 bên, gồm có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại Trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa Trần Văn Lắm, và Đại diện mặt trận giải phóng miền Nam Nguyễn Thị B́nh. Buổi chiều Hoa Kỳ và Hà Nội kư vào văn kiện thứ hai có liên quan tới sự kết ước giữa hai bên.

 

* Chú giải:

Dư luận Hoa Kỳ đối với Nixon: Báo Washington Post: “Chúng ta biết ơn Nixon v́ ông đă thực hiện lời hứa chấm dứt chiến tranh trong ṿng 4 năm”.

Báo Boston Herald Traveler: “Nó tốt hơn nhiều so với một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận”.

Báo Walstreet Journal: “Ông đă rút 550 ngàn quân ra khỏi Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất chế độ Sài G̣n…Kẻ địch đă hiểu rằng xương sống của người ngồi trong Ṭa Bạch Ốc được làm bằng thép…”

Báo Cleverlnad Plain Dealer: “Ván bài quốc tế của ông đă có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như ngoài nước. Đây là giờ phút oanh liệt nhất của vị Tổng Thống thứ 37 của chúng ta”.

 

Theo ghi chép của Hadleman th́ sau khi xem các bài báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói đúng về ông ta, đó là “có bản lĩnh và kiên tŕ”.

Bí mật đằng sau Hiệp Định:

 

Hiệp Định gồm có 9 khoản, trong 9 khoản có 23 điều. Nội dung của 9 khoản, 23 điều cho thấy trong 4 năm đàm phán hai bên chỉ thương lượng với nhau về 3 mục là (1) Mỹ rút quân (2) Hà Nội trả tù binh (3) Mỹ bồi thường chiến tranh.

 

Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân là do Nixon tự quyết định rút quân về để thay thế bằng quân Việt Nam Cộng Ḥa chứ không phải là do kết quả điều đ́nh. Như vậy chỉ c̣n 2 vấn đề mà người ta phải hẹn nhau đến Paris để thương lượng trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và đ̣i bồi thường chiến tranh.

 

Nhưng vấn đề trao trả tù binh Hoa Kỳ và tiền bồi thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả TC và Liên Sô đều thông báo cho Hà Nội là họ muốn Hà Nội chấm dứt chiến tranh. Lúc đó Lê Duẩn có muốn đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp cách nhau 2 tháng th́ Hà Nội đă đưa ra toàn bộ các điều kiện của họ: Tức là thả tù binh Hoa Kỳ vô điều kiện, không đ̣i thay thế chế độ Thiệu, không đ̣i thả 38 ngàn tù chính trị cọng sản miền Nam, không buộc Hoa Kỳ phải ghi điều khoản bồi thường chiến tranh vào trong Hiệp định đ́nh chiến v.v…Dĩ nhiên là Nixon nợ Liên Sô và TC về sự nhượng bộ này.

 

Nội dung 9 khoản ghi trong Hiệp Định cho thấy không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của hiệp định:

 

Khoản 1: Các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên Kissinger và Lê đức Thọ không phải thương lượng với nhau về chương này, chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp Định Genève).

 

Khoản 2: Chấm dứt chiến sự, rút quân. Chương này dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn, thời hạn rút quân, dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về mục này.

 

Khoản 3: Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt. Đây mới là mục chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ “trao trả tù binh” mà nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.

 

Khoản 4: Việc thực hiện quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam (Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng, chỉ cần sao lại Hiệp Định Genève).

 

Khoản 5: Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không cần thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp Định Genève 1954 là xong.

 

Khoản 6: Ủy ban kiểm soát đ́nh chiến. Cũng không cần thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân sự.

 

Khoản 7: Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng ghi theo như Hiệp Định Genève là xong.

 

Khoản 8: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc Việt. Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và chung bao nhiêu.

 

Khoản 9: Các quy định khác: Hiệp định có hiệu lực sau khi kư./.

Vậy th́ chỉ cần xem lại khoản 3 và khoản 8 có 3 điều chính yếu:

 

Điều 5 (Thuộc khoản 3): Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kư hiệp định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương tŕnh vũ khí, đạn dược và các dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…

 

Điều 8 (Thuộc khoản 3): Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong điều 5.

 

Điều 21(Thuộc khoản 8): Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định này sẽ mang lại một thời kỳ ḥa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa cũng như với các dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của ḿnh, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và toàn Đông Dương.

 

Tóm tắt 9 khoản, 23 điều của Hiệp Định th́ người ta thấy ngay sự phi lư: Ngưng bắn da beo, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu vẫn c̣n tồn tại, 38.000 cán bộ dân sự cộng sản miền Nam vẫn bị giam trong các trại tù. Trong khi đó tù binh cộng sản Bắc Việt, tù binh Việt Nam Cộng Ḥa và tù binh Hoa Kỳ được thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường chiến tranh nhưng: “Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau chiến tranh”. Như vậy công lao chiến đấu của cộng sản Việt Nam từ 1959 tới 1973 coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?

 

Nếu Hà Nội sáng suốt th́ bắt phải ghi rơ con số 3,25 tỷ vào điều khoản 21 và ấn định lịch tŕnh trao đổi, hễ đưa bao nhiêu th́ thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng th́ thả người cuối cùng. Dĩ nhiên một khi đă ghi con số và lịch tŕnh trao đổi th́ đến khi Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Hiệp Định sẽ phải kư thêm một đạo luật chuẩn chi ngân sách đính kèm. Phải chăng Lê đức Thọ đă bị lừa ?

 

V́ không tin là Lê đức Thọ bị lừa cho nên những nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp Định phải có một mật ước riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rơ con số bồi thường chiến tranh cũng như thể thức thanh toán.

 

C̣n về phần Quốc Hội Hoa Kỳ th́ họ không có lư do ǵ để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ, nghĩa là chấm dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không tốn một đồng nào cả.

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính