Nguyễn Thế Hoàng 

 

 

Chiếc Vietnam Airline đang trên đường bay chặng cuối từ Singapore về không phận Việt Nam. Phi cơ đang trên độ cao lướt đi trong không gian mênh mông chói nắng. Gần hai mươi tiếng đồng hồ ngồi máy bay tôi cảm thấy bần thần hơi mệt, cố dỗ giấc ngủ trong sự chờ đợi nhưng không tài nào ngủ được, ḷng cứ phập phồng nôn nao. Sự nôn nao của kẻ ly hương sau những năm tháng dài trở về quê nhà.

 

Nh́n qua ô cửa sổ nhỏ ra bên ngoài chỉ là biển mây trắng xóa bồng bềnh trôi. Thỉnh thoảng vẫn nh́n được những lơm màu nước xanh của đại dương bao la bên dưới qua những lỗ hổng của biển mây.

 

Mười ba năm xa quê chua xót trong niềm đau mất nước, kéo lê cuộc sống nơi đất tạm dung, dù no cơm ấm áo, dù được hít thở không khí tự do, nhưng tâm vẫn không yên, ḷng không ổn triền miên như giấc mộng, nh́n lại như đă thấy mới ngày nào.

 

Mười ba năm rời quê hương khoảng thời gian có khác nào cho mười ba năm nằm trong lao tù Cộng sản. Một đàng no ấm tự do, một đàng đói khát, bẩn thỉu, kềm kẹp, chết chóc. Ngày mất nước, tôi cảm nhận cuộc sống đă hết, không c̣n ǵ nữa. Thực tế phũ phàng. Từ nay, tôi không c̣n có dịp để c̣n đưọc mang lại đôi giày, mặc chiếc áo sơ mi bỏ vào quần, không c̣n dịp mang cà vạt, mặc veston, và có lẽ sẽ không bao giờ c̣n được hân hạnh bước chân lên máy bay đi đây đi đó. Mọi người phải buông súng theo lệnh đầu hàng, rồi tan hàng t́m mọi cách để cứu lấy thân. Kẻ lên bưng biền, kẻ về đồng quê tập tành đồng áng, rẩy vườn, con trâu, cái cày. Rồi tất cả đều bị lùa vào tù. Thế là hết. Cuộc sống tự do đă mất, phiêu lưu thăm bại biết bao.

 

Vậy mà những suy nghĩ ngày xưa bây giờ vẫn c̣n ray rứt. Với tôi, và những người chạy trước được ra nước ngoài, giờ đây ai ai cũng đầy đủ mọi thứ, c̣n có thể thừa thăi trong cuộc sống. Trong lúc đó th́ người dân trong nước vẫn lầm than, bần cùng, đói rách, bệnh tật từ ngày đất nước đổi chủ đến nay vẫn chưa ngoi lên được trong cuộc sống thê lương, bi đát.

 

Mười ba năm xa quê hương tôi trở lại thăm nhà. Nói là thăm nhà cho có cách nói, thực ra, tôi chẳng có nhà cửa. Năm 75 giặc đến, nhà cửa tài sản tiêu tùng. Cha mẹ không c̣n nữa v́ những trái phá đạn bom của phía bên kia gởi đến. Vừa vào tù th́ gia sự quay lưng đi t́m phú quư vinh hoa. Mười ba năm tù đày là mười ba năm đắng cay tủi nhục dưới sự kềm kẹp của lũ người man rợ. Khi ra khỏi tù, không nhà cửa, không nơi cư ngụ, khởi đầu cuộc sống lang thang, bấp bênh trong sự giúp đở đùm bọc của bạn bè. Ngoài bạn bè thân hửu, tôi chỉ c̣n người chị ruột duy nhất, tuổi già sức yếu, đói rách, nghèo khổ sống chui rúc trong ngôi nhà tranh vách đất nằm tận sâu vùng quê của một tỉnh miền Trung. Những lần đến thăm người chị, tôi chua xót cuộc sống đói nghèo của chị tôi và cảm thấy ḿnh bất lực trước hoàn cảnh. Những năm tháng cuối cùng ở Việt Nam, tôi đă ráng phấn đấu, vật vă cuộc sống trong mọi t́nh huống. Được bạn bè giúp đở cho vay mượn, tôi đă đến được bến bờ tự do, làm lại cuộc đời bằng tất cả nghị lực, ḷng can đảm, sự nhẫn nại.

 

Mơ màng trong suy nghĩ những đổi thay, những chặng đời đă đi qua từ lúc mới được sinh ra, lớn lên, trôi nỗi bao thăng trầm, tôi chợt mở mắt nh́n qua ô cửa nhỏ trong lúc máy bay đang lắc lư nhẹ, trụt xuống thấp từng chặng. Bên dưới là những dăi rừng cây xanh mờ mịt tiếp nối nhau. Những con đường nhỏ như sợi chỉ ngoằn ngoèo loanh quanh.

 

Khu nhà cửa li ti rải rác. Tôi đang ở trên vùng trời Việt Nam, quê hương tôi chao nghiêng bên dưới qua ô cửa nhỏ. Đất nước thân yêu của tôi qua bao năm cách xa vẫn c̣n đây, nơi tôi được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong khói lửa, tạo cho tôi cuộc sống không an b́nh ngày cũ. Nơi đây, quê hương tôi đă thăng trầm trong vinh quang, trong tủi nhục qua bốn ngàn năm lập quốc, đang mở rộng bàn tay đón chào người con xa trở về hoặc giả từ kẻ ra đi. T́nh yêu bao la của Đất Nước chan ḥa gắn bó từng mỗi con người. Tôi cảm thấy ḷng rung động một t́nh yêu quê hương rạt rào thân ái.

 

- Úi chà!... có lẽ máy bay đang sắp đáp phi trường Tân Sơn Nhất?

 

Câu hỏi bâng quơ của người đồng hành chuyến bay như một nhắc nhở. Tôi không đáp lời, quay nh́n anh chàng người Việt Nam có lẽ cùng xấp xỉ tuổi mà từ lúc lên máy bay mải mê ngủ gà ngủ gật. Anh ta cũng về Việt Nam thăm nhà. Tâm tư anh cũng nôn nao sau những năm tháng ly hương mệt mơi. Cùng một thế hệ th́ quá khứ cũng tương tự, hoàn cảnh cuộc sống không mấy khác là bao, dễ dàng làm thân. Tôi hỏi anh một câu thừa thăi:

- Anh về thăm nhà?

- Ừa...như anh vậy. Mười lăm năm rồi mới về một lần.

- Ngày trước ở trong quân đội?

- Vâng, đúng thế. C̣n anh?

- Cảnh Sát Quốc Gia.

Anh chàng mĩm cười thân thiện:

- Cảnh Sát, Quân Đội là tập thể chiến sĩ VNCH hải ngoại đang nhận trọng trách của Đất Nước giao phó. Hân hạnh được biết anh. Tôi là Thiện.

- Tôi là Hoà, quê tận Phanrang miền Trung. Anh Thiện ở Saigon?

- Đúng vậy.

 

Thiện trả lời dáng vẻ trầm ngâm, rồi hỏi:

- Anh Ḥa về chừng nào qua lại? Anh đang ở tiểu bang nào?

- Florida. Tôi về vui th́ ở, buồn th́ qua lại sớm. Tôi không có nhà cửa. Chuyến về chưa một dự định ǵ ngoài việc thăm bà chị và mồ mă ông bà cha mẹ tôi. Đất Nước ḿnh có ǵ vui hả anh Thiện? khi ḿnh chưa làm tṛn trách nhiệm.

- Đành vậy. Đó là một của những lư do mất nước. Ba mươi năm sau mọi người đă cảm thấy chua xót. Nếu các ông lănh đạo biết can đảm ở lại chiến đău đến giây phút cuối cùng và biết hành sự quyền tự quyết th́ chúng ḿnh không phải sống lang thang vất vưởng.

 

Thiện ngừng giây lát, nh́n tôi ḍ xét:

- Mời anh về với tôi khi nào thấy cần. Tôi ở Saigon. Đừng ngại. Phe ta cả mà. Tôi cho anh địa chỉ.

- Cám ơn anh Thiện. Cũng có thể lắm. Nếu cô đơn quá tôi có thể đến anh. Bạn bè th́ cũng đông, nhưng không biết đứa mất đứa c̣n.

 

Phi cơ xuống thấp hơn khiến tôi cảm thấy choáng ngợp. Mọi người khóa dây an toàn. Tiếng nói của tiếp viên hàng không vang vang nhắc nhở và thông báo hành khách những điều cần thiết. Tôi dựa lưng vào ghế trong tư thế thoải mái, nh́n quang cảnh quen thuộc của phi trường qua ô cửa nhỏ mà trước đây tôi thường lui tới. Cảnh cũ người xưa tái ngộ. Tôi cảm thấy ḷng ḿnh thản nhiên không chút giao động rộn ràng như lúc bước chân ra đi ở Mỹ. Thật sự tôi không có ǵ nôn nao, lo lắng. Tôi chẳng có người thân đưa đón tại phi trường như mọi người. Chuyến đi về thăm bất ngờ do một thôi thúc nào đó rồi hứng thú mà đi. Lại nữa, cũng không thông báo cho bà chị. Mà có thông báo th́ địa chỉ, điện thoại cũng khó khăn. Tôi không có hành lư tay xách nách mang. Chỉ vỏn vẹn chiếc xách tay bằng vải theo người, gọn gàng, nhẹ nhàng như người tản bộ. Phi cơ đáp xuống phi đạo. Mọi người rộn ràng chuẩn bị xuống tàu.

 

Khi vào đến pḥng khách để làm thủ tục nhập cảnh, tôi và Thiện đến quầy kiểm soát nhập cảnh, chuẩn bị hộ chiếu có đóng dấu visa, làm tờ khai hải quan.

 

Cầm tờ khai hải quan trong tay tôi loay hoay gần mười phút để suy nghĩ có cần phải ghi món quà mang về cho đứa cháu con bà chị. Một máy quay phim nhỏ trị giá 500 đô la. Một máy ảnh trị giá 200 đô la. Không biết có phải đóng thuế? Lại nghe nói trên 300 đô la phải đóng thuế. Quà tặng chắc miễn nạp thuế. Tôi quyết định ghi vào tờ khai.

 

Thiện nh́n vào tờ khai, rồi nói:

- Kẹp vào hộ chiếu tờ 20 đô la là yên chuyện. Nếu không rắc rối đấy.

- Tôi không muốn làm như vậy. Rơ ràng là ḿnh nuôi tham nhũng. Chúng tôi cùng mọi người đứng xếp hàng chờ đến lượt. Tôi quan sát mọi việc. Tôi chú ư viên công an hải quan vẻ mặt thật lạnh lùng, lầm ĺ, ăn nói bất lịch sự, thỉnh thoảng lại quát tháo v́ một vấn đề ǵ không vừa ư. Tôi thầm nghĩ đến lượt ḿnh thế nào cũng có chuyện. Hay là cứ làm theo lời anh Thiện. Rồi tự nhủ, không được. Chẳng có ǵ phải lo cả. Đến lượt tôi, viên công an hải quan cầm hộ chiếu và tờ khai của tôi quát lớn:

- Khai cái ǵ đây... hả?

- Quà tặng cho đứa cháu, chẳng có ǵ.

 

Mặt hắn đỏ rần nh́n lườm lườm vào tôi như muốn ăn tươi nuốt sống kẻ đối diện. Cơ cực, trông hắn c̣n hơn quỷ dữ. Hắn vụt mạnh tờ khai và hộ chiếu của tôi xuống bàn rồi cầm cuốn tập vở nhỏ lật từng trang, từng trang đầy chi chit chữ. Có lẽ hắn đang t́m giá biểu đóng thuế cho hai món quà tôi khai. Tôi chờ đợi. Mọi người nh́n cḥng chọc tôi như một tội phạm. Qua hơn năm phút, miệng hắn lè nhè, gầm gừ, rồi nh́n tôi bằng ánh mắt soi mói khiến tôi không hiểu hắn muốn ǵ.

 

Thiện đứng sau lưng tôi nhắc nhỏ:

- Lấy hộ chiếu kẹp vào tờ 20 đô là yên chuyện. Tôi như cái máy vói tay lấy hộ chiếu trên bàn, móc túi lấy tờ 20 đô la để vào rồi để hộ chiếu lại trên bàn. Tôi thấy nét mặt viên công an hải quan dịu lại ngay. Hắn vội kéo hộc bàn, rút vội tờ bạc 20 đô la cho nhanh vào ngăn kéo. Miệng hắn lí nhí một cách tội nghiệp:

- Được rồi, tha đóng thuế. Đi mau đi. Nhưng rồi, nhanh như chớp, hắn cầm tờ khai của tôi đọc lại lần nữa. Bổng hắn ném mạnh tờ khai vào mặt tôi, quát lớn:

- Không ghi địa chỉ đến th́ biết đâu mà ṃ, hả cái anh kia? Dốt thế chứ! Anh ra phía sau xếp hàng trở lại, nhanh lên. Vớ vẩn thế?

 

Tôi cảm thấy ḿnh bị xúc phạm danh dự. Nổi nóng, tôi muốn quát to lên rằng tôi không có địa chỉ tại Việt Nam. Tôi không có nhà cửa lấy địa chỉ đâu mà ghi. Vừa thôi chứ. Hăy đối xử lịch sự giữa con người với con người. Tôi cũng là người Việt Nam kia mà. Nổi uất ức sắp bật thành tiếng, Thiện vội kéo tôi đi nhanh ra phía sau. Mọi người nh́n tôi bằng ánh mắt thương hại, vừa ṭ ṃ. Thật bỉ ổi nhớp nhúa quá! Một chế độ kiềm kẹp hút máu dân. Hút từ thượng tầng xuống hạ tầng. Hai mươi đô la được chia chác nhiều người cùng đớp. Hằng năm trên triệu người dân Việt Nam nhập cảnh th́ số tiền đớp được chẳng phải là nhỏ.

 

Tôi có chống đối, chưa chắc đă yên thân v́ đây là luật lệ của chế độ này đang áp dụng chặt chẽ, sít sao. Cuối cùng tôi phải mất thêm 10 đô la nữa về cái tội không có địa chỉ để ghi vào tờ khai, tôi mới bước qua được cửa khẩu.

 

Tôi rời bến xe thị xă Phanrang vào lúc 2 giờ chiều để t́m xe đ̣ về thôn Láng Don cách đây hơn 5 cây số. Từ đó phải lội bộ qua khu rừng nối tiếp các đồng ruộng và nương rẩy hơn cây số nữa mới đến chỗ ở của chị tôi. Tôi cảm thấy người mệt nhoài v́ đêm qua ở nhà trọ khu bến xe An Đông tôi không hề chợp mắt cộng với thời gian ngồi máy bay hơn hai mươi tiếng đồng hồ. Saigon có nhiều thay đổi trông khác đi. Xe cộ, nhất là các loại xe gắn máy tràn ngập. Đời sống thủ đô ngày xưa giờ thật ồn ào, hấp tấp và mang đầy nét giả tạo. Con người như vội vàng, đua chen và lạnh lùng trong từng bối cảnh cuộc sống. Mười ba năm xa quê hương tôi cảm thấy có nhiều mất mát và chua xót cho nếp sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc tôi đang xói ṃn. Tôi cảm thấy ḷng không được vui, có sự chán chường, có tiếc nuối, có sự so sánh. Tôi chưa làm ǵ được cho quê hương dù một việc làm hết sức tầm thường nhỏ nhoi. Tôi chưa dám đ̣i hỏi quê hương đền bù cho tôi những ưu đăi nào.

 

Người ta về quê hương với những dự tính nhiều cuộc vui và hưởng thụ. Tôi không mang tâm trạng của kẻ đem đô la về vung văi để cố chiếm đoạt những lạc thú nhục dục thấp hèn, để sống phè phỡn trụy lạc thừa mứa trên nỗi khốn khổ bần cùng đói rách của người dân đang rộng khắp cùng Đất Nước.

 

Tôi cũng có thể thuê xe đi rong nhiều nơi trong thành phố Saigon, vào những nhà hàng sang trọng để ăn nhậu thả giàng, trọ những khách sạn nhiều sao, có gái hầu bao suốt đêm, vung văi đô la cho người đời nể mặt. Đối với tôi, quán cơm vệ đường, nhà trọ rẻ tiền... vẫn là chuyện hấp dẫn.

 

Chiếc xe đ̣ chậm lại rồi ngừng tại đầu cổng thôn Láng Don. Nh́n xung quanh bây giờ nhà cửa được cất thêm nhiều hơn, nhưng nếp sống vẫn như xưa không có ǵ thay đổi. Mà có chăng là cái đói, cái nghèo đang thường trực. Xóm Láng Don, nơi chôn nhau cắt rún của tôi, nơi tôi được sinh ra lớn lên và trưởng thành trong khói lửa bom đạn, nơi tôi ra đi để vào tù khi tên Sáu Tre bí thư xă ủy xách súng đến nhà chị tôi vây bắt và trói ké tôi dẫn đi sau ngày giặc tràn vào và cũng là nơi tôi ra đi tạm rời khỏi Đất Nước để lánh nạn ở phương trời xa.

 

Xóm Láng Don sau ngày đổi chủ được gọi là thôn Láng Don đất rộng, người thưa ở rải rác xen kẻ giữa những đồng ruộng, những vườn rẩy và rừng thưa bao quanh. Nơi đây đă ghi dấu trong tôi vô vàn kỷ niệm vừa êm đềm, vừa khủng khiếp lại vừa hoang mang lo sợ.

 

Người trên xe đ̣ bước xuống cùng với số người đang họp chợ chồm hỗm ở đầu cổng vừa nh́n thấy tôi họ trố mắt ngỡ ngàng một vài giây rồi ào đến bao vây lấy tôi thăm hỏi rối ra rối rít như chào mừng đứa con của thôn xóm ngày xưa đă lạc loài nơi phương trời nào nay lại trở về sum họp.

 

- Con là tư Chiếu hả? Cái tên cúng cơm của tôi đă quen thuộc với xóm làng.

- Đúng rồi. Thằng tư Chiếu đây mà. Con anh giáo Phụng ngày xưa ở băi Đ́nh đó mà.

- Con là diệt kiều mới dề phải không?

- Con là diệt kiều sao con ăn mặc như thế này hả con?

Một bà lăo trông rất quen với gia đ́nh tôi ngày xưa vừa hỏi vừa âu yếm đôi bàn tay nhăn nheo mân mê lên tóc tôi, lên vai tôi tỏ lộ t́nh người thôn xóm. Thật sự là tôi không có ǵ se sua trong chuyến về thăm này. Chiếc áo sơ mi ngắn tay bỏ ngoài quần, đôi giày da bạc màu, đầu trần, trên vai mang chiếc xách vải trông chẳng khác nào những lái buôn đi chào hàng.

 

Bà lăo vẫn nắm chặt tay tôi và nh́n thẳng vào tôi bằng đôi mắt hom hem gần như ứa lệ:

- Con ở đâu dề dậy, Mỹ hả con? Con giống anh giáo Phụng ngày xưa quá trời đất! Tội nghiệp cho ảnh. Ảnh "đi" sớm quá!

 

Một bà già khác gầy c̣m, đầu bạc phơ, nhai trầu bơm bẽm, gọi tên tôi:

- Chiếu à, má mày ngày xưa là bạn thân với tao đó, mày c̣n nhớ không? Tao với chỉ hồi đó đă hứa làm xui mà không được. Tại tụi bây không duyên nợ...trất quất cả...Uổng thiệt..!

 

Nghe bà nói, tôi bổng trực nhớ đến Thắm, người con gái có nước da thật trắng, tính t́nh vui nhộn, bạn cùng lớp Đồng ấu rồi lớp Năm, lớp Tư...tại trường làng này do ba tôi làm thầy giáo. Bảy tám tuổi chúng tôi rất nghịch ngợm. Chơi nhảy dây, đánh đáo, đánh khăng, cút bắt, u mọi...Bên thua phải cơng bên thắng. Tôi phải cơng Thắm những lần trên lưng khi phe tôi bị thua. Những lần như vậy, Thắm dùng hai chân thúc thúc vào hông tôi, hai tay của Thắm nắm hai vai tôi giục giục với giọng rít đanh thép " ép! ép! nhanh lên! " Thỉnh thoảng đang cơng chạy, tôi giả vờ té ngă lên băi cỏ, hai đứa chồng lên nhau, nằm im, nh́n nhau cười nắc nẻ! Vui đáo để! Chưa hết, tuổi 13, 14 vậy mà tôi và Thắm, cùng vài đứa khác cùng lứa, trai có, gái có, cỗi bỏ hết quần áo, ở truồng đâu thấy có ǵ mắc cở, nhảy ùa xuống hồ sen lớn trước Đ́nh làng tập bơi, rồi vật lộn nhau la chí chóe, đứa nào thua bị gh́m xuống nước. Tắm dưới hồ, chúng tôi nghịch ngợm đủ chuyện mà không biết e thẹn, cho đó là điều vui lạ thỏa tính ṭ ṃ của tuổi thơ nhà quê..

 

Tôi hỏi:

- Chị Thắm giờ ở đâu bác?

- Nó theo chồng dề miệt lục tỉnh xa lắm con ơi! Nghèo rách mồng tơi, bữa đói, bữa no.

 

Bà vừa nói vừa chậm nước mắt nh́n tôi tŕu mến như đang có một tiếc nuối cho sự mất mát nào đó của ngày xưa... Mọi người vẫn bao quanh tôi, hỏi han, thắc mắc, vừa nói chuyện riêng tư đủ mọi thứ chuyện. Lại có vài người nh́n tôi trân trối từ đầu đến chân, từ chân lên đầu như thể ṭ ṃ t́m kiếm những dấu vết ǵ đó có khác lạ của xứ người mà tôi đang mang về in trên vóc dáng.

 

Tôi sung sướng ḷng tràn ngập niềm vui trước những người đồng hương thôn xóm thân thương. Đời sống họ b́nh dị, chất phác, hiền ḥa, bộc trực, nghĩ sao nói vậy. Đa số nghèo đói, bệnh tật, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đầu trần, đi chân đất, sớm tối bán lưng cho trời, bán mặt cho đất cày sâu cuốc bẩm moi móc cái ăn. Họ chỉ ước mong ăn được no, mặc được ấm, được tự do sống, được thờ phượng, tín ngưỡng theo ḷng tin của họ. Ḷng họ thật trong trắng, không tranh giành, không hận thù, không ưa chiến tranh chém giết, không mang ḷng vị kỷ, gian manh, xảo trá. Tôi thực sự đang đứng giữa ḷng dân tộc, tâm tư đang rạo rực lắng đọng t́nh tự quê hương. Bối cảnh t́nh người, t́nh nước, tôi đang ngây ngất nổi ḷng trên từng chặng đường giữa quê hương tôi.

 

Tôi lấy tiền trong túi, rảo mắt nh́n lẩm nhẩm số người trên dưới ba mươi bao quanh tôi, rồi trao tận tay mỗi người mười đô la làm quà:

 

- Xin cô bác chú d́ cậu mợ của con nhận tấm ḷng thành của người con xa xóm xa làng trở về. Con cầu chúc quư cô bác an b́nh trong cuộc sống.

 

Tôi vẫy tay chào bà con lầm lũi bước vào con đường đất nhỏ dẫn về nhà chị tôi phải hơn cây số ḷng lâng lâng âm vang t́nh tự dân tộc. Nắng chiều le lói. Bầu trời mát dịu. Con đường đất nhỏ hẹp hai bên là đồng ruộng, là rừng cây xen kẻ những măng vườn nhỏ, những thửa đất rẩy cằn khô. Vừa đi tôi ngắm nh́n từng cảnh vật quen thuộc đă cưu mang tôi từ tuổi ấu thơ qua những tháng năm cuộc đời phía trước. Gọi Xóm Băi Đ́nh, nơi đây có ngôi Đ́nh làng thật bề thế, cổ kính, linh thiêng, có ṿng thành cao bao quanh, có cổng Tam quan đồ sộ, có cột cờ thật cao nằm trên một khu đất rộng được xây dựng từ thời Minh Mạng nhà Nguyễn, thờ một vị Tướng tài được vua phong Sắc thành Thần để chăm sóc con dân bá tánh trong vùng. Cạnh đó, là ngôi trường làng ba lớp, nền cao ráo, vách xây gạch vữa rất chắc chắn. Suốt cuộc đời ba tôi đă miệt mài nghề giáo, khai tâm trí những lớp trẻ mới lớn trong các thôn xóm lân cận. Thanh niên, thiếu nữ lớn lên qua nhiều thế hệ tại đây đều là học tṛ của người từ lớp Đồng ấu, lớp Năm, lớp Tư, lớp Ba để được đi thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược. Trường có ngôi nhà nhỏ ba gian riêng biệt dành cho gia đ́nh thầy giáo, trong đó tôi đă mở mắt chào đời. Giặc đến, ngôi nhà đổ nát, ngôi trường cũng đổ nát. Không người trách nhiệm. Không ai lai văng ghé mắt ban phát ân huệ. Bụi thời gian, rong rêu, cỏ cây phủ kín xóa nḥa những thần tiên tuổi ngọc một thời vang bóng của thế hệ chúng tôi.

 

Có tiếng chó sủa từ hướng nhà chị tôi. Trời nhá nhem tối. Tôi bước vội vào sân nhà. Thấy tôi, con chó từ trong cửa phóng ra định xông vào tôi làm dữ khi nó nh́n thấy người lạ. Tôi vẩy vẩy tay làm thân với nó. Ngôi nhà tranh, vách đất thấp lè tè, chật hẹp đang tối om, vắng ngắt. Không lẽ lại không có ai trong nhà. Kẹt con chó, tôi đứng tần ngần hồi lâu. Con chó vện ốm tong teo vẫn cố tru mỏ gầm gừ nh́n tôi canh chừng. Nó không c̣n đủ sức hung hăng để sủa, để cào cấu. Nó đứng không vững, bốn cẳng run run, nhưng nó vẫn cố gắng gầm gừ cố làm tṛn trách nhiệm giữ nhà giữ của cho chủ. Nó đang đói lê đói lết mà vẫn ra sức làm tṛn chức năng. Tôi cảm thấy thương hại nó với ư nghĩ là phải cho nó ăn cho thật no để thưởng công nó. Tội nghiệp! Nó đáng thương hơn những thứ khác ở cuộc đời này.

 

Có tiếng chị tôi từ trong nhà nói ra:

- Ai đó? sao không chịu vô nhà?

Tôi mừng rỡ, chạy ùa vào nhà, bất chấp con chó. Nhà vẫn tối om, không nh́n thấy ǵ cả.

 

Tôi kêu lên:

- Em đây chị Hai. Em mới về. Chị làm sao đó, chị đau hả chị Hai? Sao nhà tối om vậy?

- Trời! cậu Tư! cậu mới về hả cậu? Ḥa ơi! em ơi! Thiệt em về đó hả em?! Tôi thấy bóng chị tôi từ chiếc giường nhỏ kê bên trong cùng ngồi phắc dậy tiến nhanh đến phía tôi.

Tiếng chị lắp bắp đứt quăng:

- Em ơi!... em ơi!... em đó hả? Sao không cho chị hay, chị đi đón em...cơ cực...quá thế này!

 

Chị Hai vừa hỏi, rồi nh́n tôi trân trối, chị nắm tay tôi như để xác nhận thực hư.

 

- Sao nhà tối om vậy chị Hai?

- Ồ! ồ! để..để chị kiếm diêm quẹt thắp đèn.

 

Tôi đặt chiếc xách vải lên bộ ván gỗ, nơi mà tôi đă ngồi, đă nằm nhẳn bóng qua nhiều năm tháng. Ánh sáng chiếc đèn dầu lờ mờ tôi nh́n thấy rơ dáng chị tôi gầy hẳn đi. Người chị hốc hác tiều tụy xanh xao. Tóc chị gần bạc trắng. Chị đi chân đất. Quần áo chị đang mặc tồi tàn thảm hại. Nhưng tiếng nói, dáng người của chị so với má tôi ngày trước như đúc khuôn. Tôi nh́n chị là h́nh ảnh người mẹ thân yêu của tôi đang hiện diện trước mắt tôi. Ba Má ơi! con đă về đây. Con đă trở lại trên khuôn đất cội nguồn ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm mà gia đ́nh ḿnh đă một thời an b́nh cuộc sống, giờ th́...chỉ c̣n hai chị em con..!

 

Chị tôi trở lại ngồi xuống ghế tŕu mến nh́n tôi trong ánh mắt sâu thẳm. Chị không nói ǵ hơn, chị bật khóc, khóc mùi mẫn. Chị đang tỏ lộ t́nh thương cùng niềm vui đang tràn ngập tâm cang chị, đón mừng đứa em trai ruột thịt duy nhất đă trở về với chị. Tôi giữ im lặng để nguồn vui của chị tôi được thoải mái trong tiếng nấc, tiếng sụt sùi qua nước mắt. Mười ba năm tôi ra đi từ đây, trong ngôi nhà tranh vách đất này vẫn không có ǵ thay đổi. Nếu có là cuộc sống lam lũ, đói khát, bần cùng, là chứng nhân của biết bao nhiêu triệu chứng nhân quằn quại dưới chế độ phi nhân.

 

Nh́n trong nhà, vẫn chiếc giường tre ọp ẹp bên trong cùng. Bộ ván gỗ, một chiếc bàn gỗ tạp trốc sơn, mấy chiếc ghế và đau ḷng nhất là chiếc bàn thờ kê sát vách đất giữa nhà trống trơn, bụi bặm, chỉ có vơn vẹn bát hương để chính giữa bàn. Nhang tàn khói lạnh. Nơi đó, từng năm tháng dài, chị tôi đă phụng thờ cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong gia tộc họ Nguyễn này.

 

Chị tôi lên tiếng:

- Em về...em có đi nữa không?

- Em ở vài tuần rồi qua lại. Chị an tâm, từ nay em không để chị khổ nữa. Em có phần lỗi với chị rất nhiều.

- Chị nói, em đừng cười. Chị không biết phải làm ǵ sinh sống. Thời buổi khó khăn quá, đóng góp này, đóng góp nọ quá nhiều, c̣n sách nhiễu đủ thứ. Mấy năm trước em cho chị chút ít, hơi dễ thở. Bây giờ th́ bữa có, bữa không. Trong nhà không c̣n cái ǵ để bán mà mua gạo.

 

Tôi trực nhớ, hỏi chị:

- Mấy đứa cháu đi đâu không thấy hả chị Hai? Nghe tôi hỏi, chị lại khóc kể lể: - Thằng Thống trong thôn bắt đi nghĩa vụ, đóng đâu tận biên giới mấy năm bị sốt rét rừng chết rồi em ơi. Chết mà không biết xác nó ở đâu. Họ chỉ báo rồi im re luôn không thấy nhắc nhở ǵ nữa. Chị đâu có tiền bạc mà đi t́m đi kiếm. Mạng người rẻ hơn con kiến. Đành chịu thôi em. Chị buồn chị tủi cho thằng con. Lúc c̣n sống đi bộ đội tháng nào cũng nhắn về xin tiền, than thở ăn đói ăn cực. Ngày trước đi lính, chết có tiền trợ cấp, tiền tử tuất, được đưa xác về tận nhà chôn cất, được ân huệ này nọ. Bây giờ th́ trơ khỉ mốc..khiếp quá!

 

Chị ngừng lại v́ cơn ho, rồi nói tiếp:

- C̣n con Huệ th́ năm nay đă ba mươi tuổi, không có tiền ăn học. đi làm thuê gánh mướn trần ai, quần áo không có mặc lành với người ta. Cơ cực quá. Không biết nó nghe lời ai dụ dỗ bỏ nhà trốn vào Saigon gần hơn tháng nay để kiếm chồng Đài loan. Chị nghe thiên hạ đồn đàn bà ḿnh lấy chồng Đài loan nhiều lắm, có tiền xài, lại giúp đở gia đ́nh, sung sướng cuộc đời...

 

Tôi ngắt lời chị tôi và giải thích:

- Sao chị lại để con Huệ đi như vậy? Chị đừng nghe thiên hạ đồn sai bét. Lấy chồng Đài loan là lấy mấy thằng già khú đế tuổi bằng chị không hơn không kém, lấy mấy thằng tật nguyền đui què mẻ sứt, mấy thằng quê mùa dốt nát, lấy mấy thằng bệnh hoạn kinh niên chó chê, mèo ớn, chứ không phải lấy bọn thanh niên trai tráng mạnh khoẻ, giàu có sang trọng đâu. Bọn chúng lấy được gái Việt Nam mang về nước vừa làm vợ, vừa làm tôi đ̣i, đầy tớ, chúng hành hạ như súc vật. Biết bao nhiêu đàn bà nghe dụ dỗ ngon ngọt, mùi mẫn, tưởng của béo bỡ sa chân vào, bây giờ dỡ khóc dỡ cười, trốn về nước th́ không dám về sợ thiên hạ cười chê xấu hổ, cắn răng đành chịu, có người tự tử, có người bỏ trốn đi ăn xin, nhục nhă lắm.

 

- Chị đâu có cho nó đi. Nó trốn đi gần nửa tháng nay. Chị đă t́m người thế cái nhà này để có ít tiền cho thằng Thái đi Saigon t́m con Huệ về. Chị cũng làm hết nước như vậy mà không được th́ thôi, khổ hay sướng nó ráng chịu, nếu so ra th́ cũng c̣n hơn ở xứ này em ơi.

 

Chị tôi ngừng nói lại thêm cơn ho sặc sụa, nước mắt nước mủi tèm hem nhầy nhụa. Ḷng tôi cảm thấy đau thắt chua xót cho người chị ruột thân yêu đă từng chịu đựng khổ cực, nâng niu lo lắng tôi trong tuổi ấu thơ.

 

Chị lại tiếp lời:

- Em nhớ không, lúc giặc tràn vào năm 75 th́ em đă 30 tuổi rồi, có vợ con, làm việc ngoài tỉnh, đâu gần ba má, chỉ ḿnh chị lo cho ba má. Khi ba má qua đời v́ bom đạn, chị vẫn cố bám giữ chỗ đất này cho đến bây giờ. Bám giữ như giữ của hương hỏa. Nhờ có sào đất sau nhà trồng bắp, trồng khoai, lúc được lúc không. Chị và mấy đứa nhỏ ra công làm mướn nhưng ít ai mướn ḿnh v́ họ cũng khổ cũng nghèo đói rách tả tơi. Ai có người thân nước ngoài th́ may ra dễ thở đôi chút. Chỉ những kẻ có quyền có thế là phè phỡn no cơm ấm cật, của ăn của để thừa mứa. Họ có vô số kiểu bóc lột, ức hiếp người dân. Gia đ́nh chị vẫn có đi làm vậy mà đói dài dài. Họ bắt đóng đủ thứ thuế, nay quyên góp, mai ủng hộ hết chịu nổi nữa em ơi! Không biết tính sao nữa.

 

Những lời chị nói ra nghe thật chua xót đắng cay quá. Tôi t́m lời an ủi:

- Em thừa hiểu những điều chị đă nói đó chị Hai, mặc dù là em ở xa. Chị khổ và ai ai cũng khổ như chị. Em sẽ đi Saigon vài ngày t́m cho ra con Huệ bắt nó về, t́m công việc cho hai đứa nó làm. Em sẽ cất lại ngôi nhà này trên nền nhà cũ của ḿnh để có nơi thờ phượng ông bà và ba má, đồng thời, em xây mả cho ba má được êm đẹp. Trách nhiệm của em phải lo như vậy và chị cùng chung sức lo với em. Xong công việc em sẽ về bên đó lại. Thỉnh thoảng em giúp chị chút ít để chị bớt khổ cực. Cầu xin ba má phù hộ chị em ḿnh.

 

Nói xong, ḷng tôi nhẹ nhơm, đă san sẻ niềm vui với người chị ruột.

 

Chị tôi tỏ vẻ vui mừng, chị bảo:

- Lạy ơn trên phù hộ. Chị mừng lắm. Từ lâu chị cần có chỗ đàng hoàng để thờ phượng mà khả năng chị không kham nổi.

- Chị vui không? Em muốn ngày mai làm mâm cơm cúng ba má nhen chị Hai? - Ừ, em nói phải. Bây giờ em ở nhà, chị lại đàng này chút xíu.

- Chị đi đâu vậy?

- Chị đi mua gạo. Nhà hết gạo từ hai hôm qua. Mua gạo làm cơm cho em ăn.

- Chị cầm tiền mua ǵ th́ mua chị Hai.

 

Chị Hai đi rồi, tôi ra phía sau t́m nước rửa mặt. Các lu nước khô cạn. Bếp núc lạnh tanh. Tôi ra quần áo, xách nước từ giếng đổ vào lu, hốt củi vào nhúm bếp lửa. Tôi muốn tạo không khí ấm cúng tươi vui trong gia đ́nh chị tôi. Tội nghiệp người chị góa bụa đă ba mươi năm khi ông anh rễ của tôi đă mất tích trong lúc nhảy toán ra Bắc để lại ba đứa con thơ. Sống chết ra sao, bặt tin bặt tức. Những năm sau đó, nhà có thêm đám giỗ ông anh rễ. Đám giỗ không có thịt cá bánh trái đầy bàn mà chỉ là nhánh chuối, b́nh bông bẻ ở cây bông điệp ngoài sân, ly nước lạnh với ba cây nhang vọng trên chiếc bàn gỗ tạp đặt giữa nhà.

 

Trăng mười Sáu lên rất nhanh. Đêm trăng sáng quá. Không khí đồng quê trong lành mát rượi. Tôi đi ṿng quanh nhà b́nh thản ngắm nh́n từng cảnh vật quen thuộc đă gắn bó nửa đời người phía trước. Ḱa là ngôi Đ́nh làng cổ đang ở trước mặt tôi có cột cờ cao ngất, xung quanh dưới cột cờ có những bực cấp. Mấy người thời đó gọi là Việt Minh đem máng lá cờ màu máu có ngôi sao vàng chính giữa khiến cho tôi một phen kinh hoàng hồn phi phách tán khi mấy tên lính lê dương Pháp vào nhà tôi lôi cổ tôi ra chỉ về hướng cột cờ của Đ́nh. Chúng la hét tri trô những tiếng ǵ lạ hoắc nghe không được. Chúng chỉ cho tôi phải lên lấy lá cờ màu máu xuống. Tôi không dám sợ mấy ông Việt Minh, liền bị ăn mấy bạt tai nổi đom đóm. Một tên xách tôi ném lên bậc cấp buộc ḷng tôi phải giật lá cờ máu xuống rồi ù té chạy về nhà trốn chui trốn nhủi mấy ngày, chỉ sợ mấy ông Việt Minh tới bắt bỏ tù. Mới năm, Sáu tuổi mà tướng tá cao ngồng, nên dễ bị để ư, lại c̣n biết sợ tù thật cơ cực..!

 

Trước Đ́nh làng là hồ sen lớn nên chúng tôi rất thích thú bơi trong mùa hè. Bên cạnh là những đám ruộng của Đ́nh bỏ hoang cỏ da mọc dày cứng. Bọn chúng tôi đá banh, chạy đua, cút bắt, u mọi...niềm vui của tuổi ấu thơ rất sung măn. Những lần thấy người lớn đi xe đạp hồi đó gọi là xe máy tôi thèm muốn chết. Tôi lừa vào ngày nghỉ học, ăn cắp tiền của má tôi chạy một mạch vào xóm Láng Don đến quán hớt tóc chú Tư Bửu có cho mướn xe đạp, tôi mướn một xe đạp đ̣n dông dắt bộ về đem xuống mấy đám ruộng bên Đ́nh để tập cỡi. Cứ hễ ngồi lên đạp tới là ngă nghiêng, không tài nào đi được, cứ tưởng là dễ. Tập hoài tập măi mồ hôi ra ướt cả áo, khốn thay sợi dây sên xe bị đứt, không đạp được nữa. Tôi sợ điếng người hồn vía lên mây, tôi cuống quit lật đật đem dấu xe đạp vào bụi rậm không dám hé môi với ai. Về nhà tỉnh bơ, nhưng trong ḷng sợ mất ăn mất ngủ dại người ra. Một tai họa đang vây hăm tôi. Hai hôm sau chú Tư Bửu t́m ra nhà đ̣i xe, tôi bị ba tôi nện cho một trận đ̣n nên thân. Tôi nhớ măi lời chú Tư Bửu nói " Đứt dây sên, con đem ra cho chú nối lại, sao con dại lại dấu xe trong bụi"- Th́ ra là thế! Tuổi con nít ở nhà quê thật dại khờ hết nói được.

 

Chợt có bóng người đang tiến vào sân. Tôi nhướng mắt nh́n thấy quen quen. Tôi hỏi lớn:

- Ai đó?

- Tre đây anh Tư. Anh ở Mỹ mới về hả anh Tư?

 

A! th́ ra là tên Sáu Tre. Hắn là học tṛ cũ của ba tôi ngày xưa, cùng lớp với tôi. Mới mười Sáu tuổi hắn đă nhảy núi trong lúc tôi đang ra tỉnh học. Mấy năm sau đó, lâu lắm hắn về quy thuận trá hàng rồi tiếp tục hoạt động giữ chức bí thư xă ủy. Ngày mất nước, lúc tôi tạt về thăm chị tôi, hắn dẫn du kích xă đến nhà bao vây, dí súng trói ké tôi dẫn ra huyện với tội danh ác ôn nợ máu phải đền tội. Hắn bới móc tôi nhiều tội, có ít nói nhiều, bày vẻ các đơn nặc danh...nên tôi phải ngồi gỡ lịch 13 năm. Tôi không thù ghét hắn, v́ đó là nhiệm vụ hắn phải làm để được ân thưởng, tỏ rơ ḷng yêu chế độ của hắn. Gần ba mươi năm tôi quên đi chuyện cũ. Bây giờ hắn nghe tôi ở Mỹ về, t́m đến làm ǵ đây? Lại có chuyện ǵ không hà?

 

Tôi bước đến gần Sáu Tre vồn vă hỏi:

- Anh Sáu đó hả? Sao anh biết tôi về mà đến thăm tôi đây? Có chuyện ǵ hôn?

- Tôi gặp chị Hai ngoài xóm, chị nói tôi mới biết...lật đật đến thăm anh Tư. Không có chuyện ǵ đâu anh. Nói xong hắn cười h́ h́, cái giọng cười tục tĩu của hắn vẫn không bỏ được. Bây giờ tôi mới nh́n rơ tên Sáu Tre. Trông hắn tiều tụy, ốm tong ốm teo. Cùng lứa tuổi mà đầu bạc trắng, đi chân đất, chiếc quần xà lơn bạc thếch trễ quá rún, chiếc áo thun màu cứt ngựa rách lỗ chỗ, tồi tàn dơ bẩn khác một Sáu Tre của thời quyền uy dí súng trói dẫn tôi đi đ̣i bắn bỏ.

 

Tôi vờ hỏi:

- Lúc này anh Sáu làm ăn khá không?

- Chị Hai ở nhà biết mà anh Tư. Nghèo mạt rệp, chỉ thiếu cây gậy và cái bị để ăn xin.

 

Tôi vặn hỏi:

- Anh là đảng viên, viên chức nhà nước, ai cũng giàu có, sang trọng được nhiều ưu đăi, sao anh nói vậy?

 

Sáu Tre thở dài:

- Ba mươi tuổi đảng suốt đời sống chết với tụi nó, khi hết xài chúng nó vứt bỏ như chó ghẻ. Một chế độ vắt chanh bỏ vỏ, đồ khốn nạn, lưu manh, ghê tởm lắm anh Tư ơi!

 

Nghe Sáu Tre kể lể chửi bới, tôi nực cười, tống cho hắn thêm một phát:

- Tôi cứ ngỡ anh cũng đă là Tỉnh ủy viên, là bí thư tỉnh ủy hay hơn nữa phải là ủy viên trung ương đảng. Nào ngờ... nếu anh c̣n đeo theo có thể leo lên ghế Tổng bí thư như chơi...!

 

Tôi cười ngất, nh́n hắn, hắn cũng phụ họa cười theo tôi, miệng méo sệch:

- Không dám, không dám... chuyện ngày trước xin anh Tư bỏ qua cho, đừng để bụng. Tôi làm chuyện đó rồi tôi hối hận. Tôi là học tṛ cũ của thầy ngày xưa, vậy mà tôi lại có thể làm như thế. Quân Sư Phụ, thầy là cha tôi, tôi và anh là anh em ruột. Bao nhiêu đó đă dằn vặt tôi.

 

Tôi cười làm lành:

- Tôi không oán hờn anh điều ǵ đâu anh Sáu. Chuyện ǵ rồi cũng qua đi, cuối cùng chúng ta chỉ c̣n cái t́nh, t́nh người, t́nh bạn, thiêng liêng hơn, t́nh dân tộc. Tôi tin chắc lúc đó anh trói ké tôi, dí súng vào đầu tôi đ̣i bắn bỏ, tôi nghĩ rằng anh có biết việc ḿnh làm là đúng hay sai. Anh chỉ làm theo bản năng cuồng tín của anh lúc đó.

 

Sáu Tre nói như mếu:

- Anh có mạt sát tôi, tôi xin nhận. V́ tôi đă lầm để làm công cụ cho một chế độ phi nhân. Khi thức tỉnh đă không c̣n cơ hội. Tôi nguyền rủa chúng như một tội đồ đă hủy diệt đời tôi và bao nhiêu người khác.

 

Sáu Tre im lặng như suy nghĩ một điều ǵ, hắn lại cười pha tṛ:

- Anh Tư xem nè, anh và tôi cùng lứa tuổi mà tôi già hơn anh gấp bội. Đời sống của tôi đói rách bần cùng thua anh xa quá.

 

Tôi cười x̣a kéo tay Sáu Tre vào nhà:

- Tôi biết về anh nhiều, tôi chỉ đùa với anh cho vui. Anh là một nạn nhân. Chế độ cộng sản là một chế độ phi nhân. Bây giờ vợ con anh ra sao rồi?

 

Giọng Sáu Tre nghe buồn thảm:

- Hai thằng trai đi nghĩa vụ, một thằng bỏ mạng ở Kampuchea, một thằng mất tích ở biên giới Trung quốc Việt Nam năm 79 hay 80 ǵ đó. C̣n đứa con gái th́ đi lấy chồng Đài loan, biệt xứ không tin tức ǵ cả hơn ba năm nay rồi anh Tư, khốn đốn quá. C̣n vợ tôi th́...Sáu Tre bật khóc...bị ung thư... không tiền chạy chữa...chỉ chờ chết. Tôi t́m người bán căn nhà tranh và nửa sào đất để đưa mụ ấy đi Saigon chữa, mà chưa ai mua. Bó tay chịu chết anh Tư ơi..!

 

Tôi nghe xúc động hoàn cảnh của Sáu Tre:

- Tội nghiệp chị ấy, phải bằng mọi cách lo cho chị, không lẽ anh ngồi chờ chết hay sao? Anh hỏi vay mượn Nhà nước thử xem.

- Làm ǵ có chuyện đó anh Tư. Bản thân tôi c̣n chưa ra ǵ, th́ vợ con có chết có sống đếch ai cần biết đến. Khốn nạn thật..!

 

Vừa lúc chị Hai tôi về. Chị xách một giỏ xách nặng có đeo theo con gà mái tơ. Thấy Sáu Tre, chị nói:

- Chú Sáu đến chơi ở ăn cơm với chị em tôi. Ngày mai có nấu mâm cơm cúng ông bà, chú rảnh lại phụ tôi một tay, được hôn?

- Nghe chị tôi bảo, tôi thấy Sáu Tre mừng húm, cười đon đả:

- Dạ, dạ... ngày mai em đến sớm giúp chị với anh Tư. Em biết chị mua đồ nhiều, em ở lại xách phụ cho chị. Từ ngoài xóm vào đây xa lắc, chị lại già yếu nữa... Sáu Tre vừa nói vừa nh́n giỏ thức ăn và con gà trông thèm thuồng. Tội nghiệp cho hắn có khi nào ăn ngon đâu!

 

Tôi gợi ư:

- Con gà đem làm thịt mời anh Sáu nhậu bữa cho say với tôi. Ngày mai ḿnh mua thêm cặp gà khác nấu cúng, chịu không anh Sáu?

- Anh Tư nói th́ tôi phải chịu. Lâu lắm hai anh em ḿnh mới nhậu chung.

 

Chị Hai nói:

- Em à! Tội nghiệp cho chú Sáu, từ ngày thất sủng, chú sống lang thang lếch thếch, ai nhờ ǵ chú cũng làm để có ăn, ăn no về ngủ. Đối với bà con th́ chú tốt bụng. Đảng viên, viên chức nhà nước mà t́m cách vượt biên, nhưng cái tội là nghèo xơ nghèo xác, phải chịu thua. Chú đến nhà ḿnh thường xuyên đó cậu Tư, tội nghiệp có ǵ ăn nấy, có bữa chị đói, chú ấy cũng đói. Mỗi lần chú đến, chị nhờ chú việc này việc nọ. Chú nhắc đến em, và tỏ ra hối hận việc làm ngày trước.

 

Sáu Tre thở dài:

- Em chấp nhận sống như vậy thấy đời có ư nghĩa hơn. Có chức có quyền hà hiếp bóc lột dân, xa rời dân th́ lương tâm không ổn. Em tội nghiệp cho vợ em...nghèo chịu chết! Dứt lời Sáu Tre lại khóc tức tưởi.

 

Chị tôi nh́n Sáu Tre than thở:

- Tội nghiệp! Không c̣n cách nào cứu thím Sáu. Trời kêu ai nấy dạ. Tôi thấy ḷng ḿnh thắt lại, đau nhói. T́nh người trổi dậy trong tôi. Tôi nghĩ cần giúp đở vợ Sáu Tre. Cứu người như cứu hỏa. Tôi ư thức lương tâm phải hành động, không chờ sự van xin. Tôi hiểu rơ mục đích Sáu Tre đến tôi hôm nay.

 

Tôi móc túi lấy năm trăm đô la nói với Sáu Tre:

- Anh cầm tiền này về chạy chữa cho chị, c̣n nước c̣n tát, anh Sáu!

 

Sáu Tre thấy tiền mừng húm, cám ơn rối rít, đứng lên định đi về, nhưng tôi ngăn:

- Khoan về, anh ở lại đây ăn cơm với tôi. Đêm nay anh phải nhậu với tôi cho say để thấy đời có ư nghĩa hơn. Ḿnh c̣n nhiều kỷ niệm của tuổi thơ để nói. Ngày mai rồi lo cho chị. Vui vẻ, xúc động Sáu Tre đứng lớ ngớ, ngọng người không c̣n biết nói ǵ hơn. Chị Hai tôi ngồi ngây người nh́n công việc tôi làm, tôi thấy chị tỏ lộ sự vừa ư.

 

Chị cảm động:

- Em giúp cho chú Sáu là chị mừng cho em. Ḿnh làm phước cứu một người là được phước.

 

Rồi chị Hai nói với Sáu Tre:

- Chú giúp tôi làm con gà để nấu cháo. Chị Hai xách giỏ thức ăn xuống bếp. Sáu Tre dạ một tiếng, tay ôm con gà lon ton theo sau. Tôi nh́n Sáu Tre càng cảm thấy thương hại và tội nghiệp cho anh ta. Ḷng tôi tràn ngập niềm vui, ít ra tôi cũng đă làm được việc, đem t́nh thương đến với nhau giữa con người và con người.

 

Tôi đứng dậy, vươn vai, bước ra sân. Trăng sáng quá. Bầu trời trong xanh. H́nh ảnh quê tôi đẹp dịu dàng, trầm lặng đang thực sự ở chung quanh tôi. Đâu nơi nào trên trái đất này đẹp bằng quê hương ḿnh. Tôi thấy ḷng ấm lại, lâng lâng rung động theo hơi thở, nhịp tim, theo từng chặng đường quê hương mà tôi đă đi qua...!!!

 

 

Nguyễn Thế Hoàng

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính