Từ Sương Biên Thùy đến Lê Mai Lĩnh

 

 

Phạm Tín An Ninh

 

 

Năm đang học lớp Đệ Nhị C trường Trung học Vơ Tánh Nha Trang, bọn tôi nghe bạn bè xầm x́ có một “ông” học tṛ mới chuyển từ trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị vào học lớp Tam C. Thời ấy đặc biệt ở các lớp Ban C có nhiều giai nhân, nên đám nam sinh thường hay ngắm nghé. Nghe nói gă từ miền giới tuyến Đông Hà hay Gio Linh ǵ đó mới trôi giạt vào đây. Không biết tên là ǵ, nhưng thấy gă lúc nào cũng ăn mặc “à la mode”, choàng áo vest, mang giày da bóng loáng có cái đế kêu cộp cộp, trong lúc hầu hết bọn tôi chỉ mang sandal hay dép Nhật. Đă vậy gă lại thường vào lớp trễ, nên học tṛ trong lớp đang ngồi chờ giáo sư, đều nhổm đứng lên chào, bởi nghe tiếng đế giày thong thả nện xuống nền ciment ngoài hành lang, cứ tưởng là thầy giáo đến! Chắc có nhiều tiếng rủa thầm trong miệng. Đă vậy gă ta lúc nào cũng ngước mặt nh́n trời, xem mấy lớp đàn anh cứ như cỏ rác.

 

Cùng năm ấy, c̣n có một “ông” khác, không biết v́ sao bỏ “sào huyệt” từ cố đô Huế vào học lớp đệ Tứ, chuyên “xách động” băi khóa biểu t́nh chống chế độ TT Ngô Đ́nh Diệm, t́nh nguyện đứng dưới trướng một cô cùng lớp Tam C của ông Quảng Trị,  rất phong độ nên sau đó cô nàng nổi tiếng với cái tên “Nữ Hoàng Xuống Đường”.  Ông gốc Huế này, mới nghe cái tên, ai cũng biết. Đó là ông Trần Mậu Tư (sau này bị chính ông anh đồng chí Nguyễn Đắc Xuân bắn chết trong biến cố Mậu Thân 1968). Nhưng ông thần Mậu Tư này là đồ bỏ, chỉ “quậy” một năm chẳng tới đâu, rồi biến, trở về Huế (h́nh như bị trường đuổi học v́ lư do kỷ luật). Chỉ c̣n có ông học tṛ gốc Quảng Trị là nổi đ́nh nổi đám.

 

Bọn tôi đang ghét cay ghét đắng, chưa kịp “hỏi thăm sức khỏe”, th́ bất ngờ gă được thầy hiệu trưởng Lê Nguyên Diệm “mời” thuyết tŕnh trước toàn trường đề tài “ Giới Hạn Tự Do Của Học Sinh Ở Trường Học”.  Ghê gớm hơn, chỉ vài tháng sau đó, gă lại được tuyển chọn để thuyết tŕnh một đề tài “đẳng cấp hơn” mang tính văn học xă hội: “Thân Phận Người Đàn Bà Qua Ca Dao Việt Nam” tại rạp ciné Minh Châu bề thế!

 

Mọi người bắt đầu nh́n gă với con mắt khác, và dường như gă cũng biết chọn thời cơ để làm cho thiên hạ thấy ḿnh “dễ thương” hơn. Sau này chính gă tự thú: không biết v́ sao mà lúc ấy không bị ăn đ̣n…mới lạ!

 

Đùng một cái, mới vào đầu niên học mới, không những chỉ trường Vơ Tánh mà gần như cả thành phố Nha Trang “dậy sóng”: một tập thơ mới toanh của một ông nhà thơ cũng mới toanh được ra mắt tŕnh làng (thời ấy hiếm lắm). Tập thơ với cái tựa“Nỗi Buồn Nhược Tiểu” nghe  đầy tính triết lư nhân sinh quan thời cuộc, và với cái tên tác giả “Sương Biên Thùy” đượm mùi chinh chiến, làm nhiều người nghĩ tác giả phải là một kẻ gió sương, từng trải, giờ gác kiếm dừng bước giang hồ, theo cụ Nguyễn Bá Trạc “vỗ tay mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.” Nhưng không, cả thiên hạ ngạc nhiên khi nhận ra thi nhân Sương Biên Thùy này chính là ông học tṛ lớp đệ Nhị C mà năm trước cả trường đều gai con mắt khi hắn ta từ Quảng Trị nhập gia nhưng không thèm tùy tục.  Cũng từ ấy chẳng ai thèm nhớ cái tên gă học tṛ Lê Văn Chính mà tất cả đều gọi hắn là Sương Biên Thùy. (có tiếng xầm x́: cái tên nghe cải lương bỏ mẹ!)

 

Tập thơ tuy rất “đẳng cấp” từng vang tiếng một thời ở thành phố biển, v́ quá lâu (nhưng không quá xưa) nên hiếm ai c̣n nhớ sau thời gian dài với biết bao thăng trầm dâu biển. Giờ chỉ xin ghi lại một vài bài tiêu biểu:

 

CHÂN DUNG TỰ HỌA

 

Cha tôi c̣n, nhưng người theo kháng chiến

Phung phí một đời cho ảo tưởng hôm qua

Sống, chết đến nay, tôi không c̣n biết

Dư ảnh lu mờ, kỷ niệm phôi pha.

 

Từ cha tôi lên đường kháng chiến

Mẹ tôi về lo việc bán buôn

Mang tuổi thơ, tôi đă biết buồn

Không lúc cười, dù hoạt kê trước mặt

 

Mắt không vui, dù đời  không buộc chặt

Tôi ngủ nhoài vào vùng lớn suy tư

Mang niềm đau nhược tiểu ưu tư

Tôi chối từ mọi tơ vương vị ngă

 

Đi vào đời bằng Tân nhân bản

Xin kéo cờ các ngơ hồn nhân dân

Tung hô t́nh thương, suy tôn thánh thần

Danh sáng yêu thương, khai hoa nở nhụy

 

Cho cuộc đời tṛn thêm nghĩa lư

Cho bom đạn xâm lăng, bi kịch kéo màn

Bắc lại nhip cầu, san bằng ḷng huyệt

Cho người người yêu nhau da diết

 

Đến khi chết

Xin làm cây cổ thụ

Đứng giữa đất trời

Cười với thiên nhiên.

 

 

BẢN CÁO TRẠNG

 

Tuổi trẻ hậu chiến

Loài ác điểu cướp mất

Chừ lớn lên

Mất bản tính con người.

 

Chúng tôi lớn lên

Ngôn ngữ phát âm

Là tiếng kêu kim khí

Con chim họa mi không hót lời thanh xưa

Con chim đại bàng không lời oang oác.

 

Rừng cây danh từ bạc màu biến sắc

Khuynh hướng nhân bản lệch lạc từ đầu

Tầm tay chúng tôi, chừ nay yếu đuối

Trước lưởi lê quân thù

 

Chúng nó tiến hậu tả hữu

Phi lư chúng ta đơn côi kéo dài

Hởi thợ thuyền, lao động, sinh viên

Những bàn tay xây nền mới

Hăy kết lên, Vạn lư thành

 

Vẻ vang phải trở lại

Lịch sử đất nước này

Bất khuất ḍng Lệ Lợi

Việt nam, muôn năm đây

 

Anh hùng Nguyễn thái Học

Tạ thu Thâu, Trần Cao Vân

Các anh là thần thánh

Thành tự do muôn năm

 

Việt nam muôn năm

Việt nam muôn  năm

 

Sương Biên Thùy

(1961)

 

Khi Sương Biên Thùy đang “làm mưa làm gió” ở trường Vơ Tánh th́ tôi đă bỏ thành phố biển vào Sài g̣n, rồi chẳng thuộc ḍng hào kiệt ǵ đâu tôi cũng phải “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động tận vùng núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, năm tháng cùng đồng đội miệt mài với chiến trường, súng đạn. Măi bốn năm sau cả đại đơn vị chuyển xuống đặt bản doanh tại Sông Mao, thành phố Nùng, nơi có ông lính ĐPQ, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn dám qua mặt bọn tôi hô hào: “Mai ta đụng trận ta c̣n sống/ Về ghé Sông Mao phá phách chơi/ Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm/ Vung tiền mua vội một ngày vui”.

 

Tôi từng dẫn quân dẫm nát Mật Khu Lê Hồng Phong, từng bị thương và cũng từng: “Đêm nằm ngủ vơng trên đồi cát /Nghe súng rừng xa nổ cắc cù /Chợt thấy trong ḷng ḿnh bát ngát/ Nỗi buồn sương khói của mùa thu”, nhưng không có cơ hội nào tao ngộ với ông thiếu úy CTCT Lê Văn Chính, để nh́n mặt Sương Biên Thùy bấy giờ dễ ghét đến đâu. Bởi v́ sau khi toàn bộ đại đơn vị tôi di chuyển lên Kontum vào Mùa Hè Đỏ Lửa, chặn Cộng quân từ Dakto tràn xuống, ông quan một CTCT  Lê Văn Chính mới về tŕnh diện TK B́nh Thuận, và làm mưa làm gió ở vùng Ma Lâm, Tà Dôn, Nora này. Chàng ta cũng không kịp gặp ông bạn nhà văn Y Uyên bị VC phục kích bắn bị thương rồi đâm chết ngay bên ngoài căn cứ Nora gần ngọn núi Tà Dôn. Nơi chính tôi từng có nhiều kỷ niệm, khi chỉ huy đại đội bảo vệ cho đơn vị Công Binh Chiến Đấu xây dựng căn cứ này để kịp cho một pháo đội Pháo Binh đến đồn trú, yểm trợ trực tiếp cho đơn vị tôi hành quân giải tỏa Mật khu Lê Hồng Phong (tháng 9/1966). Sau này khi nghe ông thiếu úy Lê Văn Chính dám đơn thân độc mă ra ứng cử dân biểu tại đơn vị B́nh Thuận này, tôi c̣n sợ ông hơn cái thời ông dẹp sang một bên mấy nhà thơ đàn anh đàn chị ở Nha Trang:  Duy Năng, Sao Trên Rừng, Cao Hoành Nhân, Thanh Nhung…ra mắt tập thơ “Nỗi Buồn Nhược Tiểu”. Mới là quan một mà dám “giỡn mặt” với ông đại tá tỉnh trưởng, từng là trưởng Pḥng Nh́ nổi tiếng của Quân Đoàn! Biết ông…ngông, nhưng tôi cũng phải ngă nón bái phục!

 

Rồi găy súng, tan hàng, rồi tù đày, vượt biển… Hơn mấy chục năm sau, trôi dạt xứ người, bỗng đọc được những bài chính luận, bài thơ của ông Lê Mai Lĩnh nào đó. Những bài thơ khẩu khí, ngang tàng nhưng cũng đầy nhân bản, lăng mạn. Tôi buột miệng:  Lại thêm một ông Quảng Trị nữa! Bởi cái tên Mai Lĩnh, cùng với Triệu Phong, Gio Linh, Đông Hà…luôn làm tôi nhớ tới những địa danh đẫm máu của vùng giới tuyến Quảng Trị ngày nào, nơi có biết bao đồng đội của tôi đă ngă xuống và dưới đáy sông Thạch Hăn vẫn c̣n xương cốt của hàng vạn những người trai trẻ ở phía bên kia!

 

Khi ấy tôi đâu có biết Lê Mai Lĩnh chính là hóa thân từ Sương Biên Thùy của Vơ Tánh ngày xưa, nên một lần nữa tôi lại ngán thêm một ông nhà thơ Quảng Trị. Ưa triết lư trong những cơn say và tự nhận ḿnh là “khùng thi sĩ” mà yêu nước (và yêu cả giai nhân) nồng nàn chẳng kém thua ai:

 

Kư tên dưới đây là tôi

Lê Mai Lĩnh

 

Thi sĩ

 

Yêu quê hương như yêu chính bản thân ḿnh

Và Tổ quốc, trong trái tim tôi hằng đêm thao thức

Bụi và lăng mạn

Thêm một chút khùng

Khi trái trời đổi gió biến thành điên

Có máu hiệp sĩ

Thích trừ gian diệt bạo

 

(Bản cáo trạng…)

 

Ở trong tù mà dám viết thư chất vấn Tổng Bí Thư Đảng, chửi cả Hồ Chí Minh và lên án chế độ:

 

Cha tôi là Lê Văn Thông,

Từ người kháng chiến yêu nước trước năm 75

Biết nói tiếng Pháp như gió

Sau trở thành đảng viên CS, chỉ biết cầm súng cắc – bụp-x̣e

Giờ đă 80, nằm một chỗ chửi ông

và tập đoàn lănh đạo đảng cộng sản Việt nam

Bởi theo các ông mà thân tàn ma dại

Thêm một điều tôi muốn nói với ông

Là, hiện nay nhân dân đang nguyền rủa ông quá đỗi.

Họ nguyền rủa ông làm tay sai cho CS Quốc Tế

Đem chủ nghĩa phi nhân, ngoại lai về giết hại dân lành

Họ nguyền rủa ông đă bần cùng hóa nhân dân

Đưa dân tộc vào tận cùng rách nát.

 

(Bản cáo trạng…)

 

Trông lên thấy cờ đỏ chói chang

Biểu ngữ, huy chương nghĩa chữ mập mờ

Ngó xuống, thấy dân đời điêu đứng

Máu đỏ, thây phơi hàng nối hàng

 

(Thời đại Hồ Chí Minh)

 

Và Lê Mai Lĩnh cũng đa t́nh, lăng mạn không ai bằng:

 

Nửa trái tim tôi em cất giữ từ lâu

Nhớ cẩn thận đừng để rơi để rớt

Tôi sống được, nhờ nửa trái tim đó

Em để mất tiêu, là đời tôi mất tiêu.

 

(Hăy giữ giùm nửa trái tim khú đế)

 

Hơn 60 năm t́m lại được cô láng giềng

Mừng khắp khởi, hạnh phúc đếm từng giây từng phút

Đêm đêm ôm nỗi nhớ cô với ḷng trai chết điếng

Cô láng giềng nằm bên ngoan như con mèo con

Ngăn tim tôi cũng là lâu đài t́nh ái

Những ǵ cô muốn không thiếu một chi

Tôi, thi sĩ, nào đâu dám để cô thiếu thốn

Hễ thấy cô buồn, là tim tôi héo hon.

 

(Buồn cô láng giềng)

 

Mỗi sáng mai, lời chào gởi em như thường lệ

Là một bài thơ tỏ t́nh như thuở mới đôi mươi

Thuở cùng nhau đến trường ngày hai buổi

Em bên kia, anh lẽo đẽo bên này

 

(Mỗi sáng mai)

 

70 tuổi thấy ḿnh c̣n sung độ

Cơm ba bữa, quà vợ tháng ba lần

Gạo lức, muối mè, thiền và thơ

Cứ tàn tàn, có tháng vượt chỉ tiêu.

 

(Khai bút đầu năm)

 

Dù hết ḷng yêu nước, thủy chung với đồng đội bạn bè cùng“những giai nhân”, nhưng cuộc đời Lê Mai Lĩnh cũng đă có lúc không tránh khỏi phong ba dông băo:

Một mùa dông băo đă đi qua

 

Dông băo ngoài trời, dông băo trong ḷng

Ta đi trong tả tơi rách nát

Rách nát gia đ́nh, rách nát t́nh yêu

Tả tơi cuộc đời, tả tơi nhân thế

 

(Băo ngoài trời, băo trong ḷng)

 

Thôi th́, phải có tơi tả th́ cuộc đời mới có tṛn ư nghĩa, thi vị, để thi nhân c̣n khóc gió thương mây, viết nên những vần thơ tuyệt tác bằng những gió mưa được thổi ra từ chính trái tim ḿnh.

 

Tôi là người may mắn được đọc thơ Sương Biên Thùy khi anh c̣n là người bạn đồng môn ở tuổi 16, 17 và sau này lại được đọc thơ Lê Mai Lĩnh với tuổi 80. Nếu thơ là tiếng ḷng, th́ Lê Mai Lĩnh đă thực sự trang trải hết ḷng ḿnh với quê hương đất nước và bè bạn, tha nhân. Với một phong thái ngay thẳng bộc trực có chút ngang tàng cùng những vần thơ khí khái, lăng mạn, đa t́nh, anh đă để lại trong tôi niềm mếm mộ.

 

Viết mấy ḍng này, ngoài t́nh bạn đồng môn, c̣n với tấm ḷng“tằm trả nghĩa dâu”, ghi lại chút t́nh thanh khí, niềm đồng cảm giữa người yêu thơ và thi nhân đất Quảng (Trị), vùng địa đầu một thời mịt mờ lửa đạn.

 

 

Tháng 5/ 2023

Phạm Tín An Ninh

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính