-
Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) là Tư lệnh Sư
đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng
lĩnh đă tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
-
Ông sinh ngày 22 Tháng Tám năm 1933 tại Sơn Tây. Năm
1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Vơ bị Địa phương Huế đến năm
1965 được thăng Thiếu tá.
-
Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ
chỉ huy. Sau khi chiến thắng, được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn
21 Bộ Binh.
Năm 1974, ông được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy
và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
-
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh
Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào khoảng giữa năm 1973, khi ông vẫn c̣n mang cấp
bậc Đại Tá. Ông nổi tiếng về tinh thần dũng cảm và chống cộng cương
quyết, cũng như tính t́nh nóng như lửa cuả ông.
-
Vào mùa Hè năm 1972, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh
Sư Đoàn 5 Bộ Binh đă có mặt ở Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn tại
An Lộc cùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn. Họ đâu biết rằng
họ sẽ là chứng nhân cho một biến cố lịch sử.
-
Rạng sáng ngày 5 tháng 4 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt
xua bốn sư đoàn (5, 7, 9 và B́nh Long) và hai trung đoàn xe tăng 202,
203 nhiều đơn vị yểm trợ tấn công thị xă An Lộc. Cộng quân đă dùng
những trận mưa pháo để chà nát và san bằng thị xă nhỏ bé nàỵ Hàng ngàn
đồng bào vô tội đă bỏ ḿnh dưới hỏa lực của Cộng quân.
Nhiều lần, Cộng Sản Bắc Việt dùng chiến xa T-54 tấn công thẳng vào nơi
Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 5 đang đóng. Lần đầu tiên người lính
VNCH gặp phải chiến xa địch, lại không tin tưởng vào khả năng của vũ
khí của ḿnh, nên đă hoảng hốt t́m nơi ẩn tránh. Không thể trách họ,
v́ hoả tiễn M72 không đủ sức xuyên phá nếu bắn vào đằng "mũi" của xe
T-54. Khi ấy tướng Hưng đă cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay, với ư
định nếu Việt Cộng tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc
chiến xa đi đầu đă tiến gần, quay ngang quay dọc để t́m kiếm trung tâm
chỉ huỵ Đại Tá Vỹ thừa cơ đứng lên, bắn một quả đạn M72 vào hông xe
làm chiếc xe tăng bốc cháỵ Binh sĩ lên tinh thần theo phương pháp diệt
xe của Đại Tá Vỹ, ḅ theo nhũng vách tường, bờ giậu để bắn xe địch.
Kết quả là đoàn xe bị tiêu diệt.
Sau 68 ngày tử thủ, Cộng quân bị đánh lui và An Lộc được giải toả. Đại
Tá Lê Nguyên Vỹ "được thăng cấp Chuẩn Tướng và" về chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ
Binh tại căn cứ Lai Khê (B́nh Dương) khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đi
nhận nhiệm vụ mới ở Quân Khu IV.
Tại Lai Khê, ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, trong việc xây
dựng và tu bổ hệ thống pḥng thủ, cũng như huấn luyện binh sĩ. Ông
cũng rất nhiệt t́nh trong việc bài trừ tệ nạn và tham nhũng trong hàng
ngũ quân độị V́ thế, ông đă mang lại miềm tin tưởng cho mọi người .
-
Cuối tháng 4 năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt từ
nhiều ngả tiến về Saigon. Nhưng cánh quân phía Đông Bắc của chúng
không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù có lực lượng đông gấp nhiều
lần. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đă làm tṛn nhiệm vu..
-
Sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống VNCH ra lệnh cho
quân đội buông súng đầu hàng. Tướng Vỹ triệu tập sĩ quan và binh sĩ
dưới quyền lần cuối. Ông tuyên bố: V́ tôi là tướng chỉ huy mặt trận,
tôi không thể thi hành được lệnh nàỵ Tôi nghĩ thân làm tướng, phần nào
đă hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em, nên tôi phải
chọn lấy con đường đi cho riêng tôị" Đoạn ông b́nh tĩnh bước ra sân,
nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, và rút súng ra tự sát.
Lúc đó là 11 giờ sáng 30 tháng 4 năm 1975.
-
Thi thể Tướng Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng
cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về
cải táng ở Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp. Năm 1987, hài cốt ông được thân mẫu
(mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở
tỉnh Sơn Tây
TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ
CHẾT THEO THÀNH
NGUYỄN VĂN HẢI, M.A
Cựu
SVSQ/K21 Trường VBQGVN
Cựu
Thiếu tá Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh B́nh Dương (VNCH)
Kính dâng Anh Hồn Tướng Lê Nguyên Vỹ
Kính tặng các chiến sĩ Quân Lực VNCH.
Các
bạn thân của tôi thường nhắc tôi viết về Tướng Lê Nguyên Vỹ, Cựu Tư Lệnh
Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Mọi người Việt Nam đều biết Tướng Vỹ đă tự sát để đền
nợ nước tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB ở Lai Khê Bến Cát, tỉnh B́nh Dương vào ngày
30 tháng 4 năm 1975. Nhưng các bạn tôi cho rằng đến bây giờ mọi người
chắc chỉ biết về hành động anh hùng của Tướng Vỹ và mọi người rất cần
biết thêm nữa về ông. Sở dĩ các bạn tôi quay sang đề nghị tôi viết về
ông bởi v́ họ biết tôi là người làm việc với ông từ khi mới ra trường Đà
Lạt, từ là một Trung đội trưởng của Trung đoàn 8 BB mà Trung tá Lê
Nguyên Vỹ là Trung đoàn trưởng, rồi lên dần đến Tiểu đoàn Trưởng của
SĐ5BB và Đại tá Lê Nguyên Vỹ là Tư Lệnh Phó, cuối cùng là Tư Lệnh SĐ5BB.
Nói như vậy, tôi chắc chắn chỉ có thể viết một phần nào về con người làm
việc của Tướng Vỹ qua những lần tiếp xúc với ông, nhận lệnh và thi hành
lệnh của ông, c̣n cuộc đời riêng tư của ông tôi hoàn toàn không biết ǵ
cả. Tuy thế viết đến những ḍng chữ này, tôi cảm thấy rất hănh diện v́
đă có thời gian thật dài làm việc dưới quyền Tướng Vỹ và tri ơn ông, bởi
ông là người giới thiệu tôi đi làm Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh B́nh
Dương. Hơn thế nữa ông lại thường hănh diện xác nhận với nhiều người
trước đây rằng chính ông là người từng chỉ huy tôi từ lúc tôi mới ra
trường, làm Trung đội trưởng của Trung đoàn 8BB, mỗi khi ông có dịp nói
một điều ǵ về tôi. Tôi không hănh diện sao được khi tôi được phục vụ
dưới quyền của một vị Tướng Anh Hùng, của một Trần B́nh Trọng, của một
Nguyễn Tri Phương bất khuất trước quân thù, lấy thân ḿnh để đền nợ
nước!
VÀI NÉT ĐÁNG GHI NHẬN TỪ TƯỚNG VỸ
Tướng Vỹ là người trực và nóng tính, hăng say làm việc và học hỏi. Ngoài
Việt Cộng là kẻ thù không đội trời chung với Tướng Vỹ, về phía
Quốc Gia chắc cũng có một số người không thích ông, có thể cả ngay bây
giờ là lúc tôi đang viết về ông đây. Tuy nhiên đây cũng phản ảnh được ư
ông là nặng thà để người ta ghét, nhưng ông không bao giờ muốn người ta
khinh ông.
Tướng Vỹ nói giỏi hai ngoại ngữ Pháp và Anh văn, sau này ông học thêm
chữ Trung Hoa, nhưng ông chỉ biết đọc, viết mà không nói được. Ông học
theo lối học chữ Nho của các cụ ta hồi xưa. Ông kể lại cho tôi nghe, khi
được Quân Đoàn 3 cho qua Đài Loan du lịch, mỗi khi vào tiệm ăn ông phải
viết lên giấy các món ăn. Ông có công đầu trong trận An Lộc vào mùa hè
đỏ lửa 1972, chính tay ông đầu tiên đă dùng súng M72 bắn chặn đứng được
chiến xa của VC tấn công vào An Lộc, kích động lại tinh thần chiến đấu
của các đơn vị tham chiến VNCH lúc bấy giờ. Trước khi Tổng Thống Thiệu
lên An Lộc, Tướng Vỹ được trực thăng bốc về Lai Khê để được thưởng “du
ngoạn Đài Loan”. C̣n việc lên lon, gắn Bảo Quốc Huân Chương hoặc các huy
chương khác phải nhường lại cho những người khác. Nghe nói Tướng Vỹ
không được gặp Tổng Thống Thiệu v́ ông không nằm trong “BĂNG” lúc bấy
giờ. Trước khi được trực thăng bốc về Lai Khê, Tướng Vỹ có ghé thăm chỗ
đóng quân của tôi, tôi có con gà làm cơm mời ông ăn cơm trưa. Cũng v́
bữa cơm tiễn chân ông mà tôi bị người ta gán cho là thuộc “BĂNG” Đại Tá
Vỹ lúc bấy giờ. Tuy nói ông là người trực và nóng tính, nhưng sau vụ
khen thưởng bất công của Tông Thống Thiệu tại An Lộc, ông không hề bày
tỏ ư kiến bất măn hoặc chê bai ai cả, ông coi như không có ǵ xảy ra.
Ông lại tỏ ra rất vui và hănh diện khi có người vẽ tặng ông một bức
tranh mô tả ông đang dùng súng M72 ngắm bắn chiến xa VC tại mặt trận An
Lộc.
Ông dùng nhiều thời giờ vào việc nghiên cứu các trận đánh hoặc học chữ
Nho. Tướng Vỹ thường khuyên tôi cần phải ghi danh học Đại học để có bằng
cấp, sau này nếu tôi có làm lớn không bị chê là vơ biền. Tôi theo lời
khuyên của ông nên bắt đầu trở lại học college vào tuổi 50 ở đất Mỹ này,
thời gian trong tù VC tôi cũng dấu sách học tiếng Trung Hoa để đọc được
chữ Tàu, nhưng tôi cũng giống ông làm “Tàu câm”, v́ tôi cũng không học
nói tiếng Trung Hoa.
Tướng Vỹ rất thích người nào thực sự làm việc, c̣n người nào hay báo cáo
láo, thoạt đầu ông có thể tin, nhưng nếu sau ông khám phá ra là báo cáo
giả th́ người báo cáo rất khó làm việc với ông. Bởi trong buổi họp nào
những người lười biếng hay báo cáo láo thường được ông đưa ra làm ví dụ
để răn đe những người khác.
Tướng Vỹ có trí nhớ rất dai, nhất là những lệnh ông đă ban ra, ông luôn
theo dơi việc thi hành lệnh ra sao của thuộc cấp. Trước khi ông đề cử
tôi đi làm Quận trưởng Phú Giáo, ông đă bí mật gọi những người tôi cho
về phục vụ ở trại gia binh Trung đoàn 8. Tôi c̣n nhớ khi ông c̣n làm
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8BB, Đại tá Vỹ đă có văn thư gửi cho các
Đại đội của Trung đoàn, chọn 3 hoặc 4 người lính tốt, đă từng bị thương
ở chiến trận được ưu tiên về phục vụ tại trại gia binh của Trung đoàn ở
B́nh Dương. Tôi được những người lính mà tôi đă cho về phục trại gia
binh (theo lệnh của Tướng Vỹ) khoảng 7 năm trước đó, nói lại rằng đích
thân tướng Vỹ gọi từng người vào đập bàn, đập ghế để cướp tinh thần họ
và hỏi xem những người này đă phải nộp cho Thiếu tá Hải (lúc đó tôi là
Trung úy Hải, ĐĐT Đại đội 5/TĐ2/8) bao nhiêu tiền để được về phục vụ tại
trại gia binh? Giả thử tôi đă không đứng đắn trong việc thi hành lệnh
của ông cách đó 7 năm, th́ bao nhiêu cố gắng trước của tôi cũng coi như
đổ biển hết. Khi đụng trận, ông thường xuyên mở máy theo dơi tới cấp
Trung đội, Đại đội để xem chúng tôi điều động quân như thế nào. Làm việc
dưới quyền ông, các đơn vị phải luôn sẵn sàng ở vị trí chiến đấu, mọi
bất cNn gây thiệt hại cho binh sĩ, đơn vị đều không được chấp nhận. Khi
thăng thưởng cho thuộc cấp Tướng Vỹ cũng làm hết ḷng ông và nhất là
không đ̣i hỏi một điều kiện ǵ, tiền bạc hoặc quà cáp chẳng hạn. Với ông
muốn lên lon, lên chức nhanh th́ điều kiện duy nhất là phải làm việc
giỏi và đánh giặc giỏi.
Tướng Vỹ là cấp chỉ huy về chiến thuật rất giỏi ông thường nghĩ cách
đánh lừa địch dễ như chơi. Kế hoạch rút quân khỏi B́nh Long của ông đă
chứng tỏ ông có khả năng vẹn toàn chỉ huy từ tấn công đến lui binh. Sau
cuộc rút quân đầy máu và nước mắt tại Đại lộ KINH HOÀNG của Quân khu 2,
nhiều người lầm tưởng rằng các cấp chỉ huy chiến thuật của Quân Lực VNCH
chỉ biết chỉ huy tấn công mà không biết rút quân. Cuộc rút quân khỏi
B́nh Long của Tướng Vỹ là câu trả lời đích đáng cho những lời nhận xét
sai lầm trên. Theo lệnh của Tướng Vỹ, cuộc rút quân khỏi B́nh Long đă
được giữ bí mật cho đến lúc hoàn tất. Sự liên lạc của các đơn vị qua máy
truyền tin được đặc biệt giới hạn, mă hóa. Trong khi rút quân, trực
thăng vẫn ồ-ạt chuyên chở những khẩu súng pháo binh và đạn dược vào B́nh
Long. Những ổ quan sát của VC quanh B́nh Long chắc chắn đă thông tin cho
cấp chỉ huy của chúng là B́nh Long đang được tăng viện quân và vũ khí,
đạn dược, cho đến khi VC biết được sự thật B́nh Long đă bị bỏ trống th́
đă muộn. Bởi v́ những khẩu pháo binh trực thăng vận vào B́nh Long kia
toàn là súng giả làm bằng giấy!
Tôi xin kể thêm một trận đánh rất ngoạn mục ở Phú Giáo, cũng nói lên tài
đánh lừa địch của Tướng Vỹ. Khi tôi mới về làm Quận trưởng Phú Giáo được
khoảng một tháng th́ VC mở một cuộc tấn công đại quy mô vào Phú giáo và
Bến Cát, tỉnh B́nh Dương. Tướng Vỹ đoán biết trước được ư định của địch
quân, nên ông đă bí mật dấu 6 khẩu pháo binh trong vườn mía tại Tân
Hưng, xă Tân B́nh của Phú Giáo. Khi VC mở ồ- ạt hai mũi tấn công, một
vào quận Bến Cát do SĐ18BB trách nhiệm, một vào Phú Giáo (ngay cầu sông
Bé). Quận Bến Cát bị VC tràn ngập xă An Điền, c̣n đơn vị giữ cầu sông Bé
của tôi cũng đang hấp hối gọi tôi xin pháo binh bắn yểm trợ ngay trên
đầu họ. Các ổ pháo binh của Phú Giáo, B́nh Dương và ngay cả ở Lai Khê
của SĐ5 hầu như bị tê liệt, bởi các khẩu pháo của VC (VC bao giờ cũng
nghiên cứu kỹ vị trí pháo binh của ta trước các trận đánh) đang bắn dữ
dội khóa họng các ổ pháo của ta. Trong giây phút thập tử nhất sinh, VC
đă tràn lên cầu sông Bé, Tướng Vỹ đă ra lệnh 6 khẩu pháo binh dấu tại
Tân Hưng (không nằm trong danh sách phải khóa họng của VC) đồng loạt
khai hỏa hàng ngàn quả lên đầu giặc đang xung phong lên chiếm cầu. Trận
đánh này tôi cũng phải “liều thân tranh đấu”, mặc thường phục lẫn lộn
với đám dân chạy loạn, lọt được vào cầu sông Bé để tô chức lại đơn vị
Địa Phương Quân giữ cầu đang hấp hối ở đây, mà sau đó Tướng Vỹ đă gọi
máy nói đùa với tôi rằng “Tao nghe mày xuống cầu sông Bé để sắp xếp lại
đơn vị, tao sợ cho mày mà muốn đái cả ra quần” (xin chân thành cáo lỗi
với độc giả v́ đă trích lời nói tục của Tướng Vỹ,). Tướng Vỹ không thích
văng tục, cọc cằn như các cấp chỉ huy khác, nhưng ông thích nói tiếu
lâm, đôi khi tiếu lâm của ông cũng hàm ư châm biếm nhẹ.
THÊM VÀI KỶ NIỆM VỚI TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ
Tháng 7 năm 2006, tôi và bà xă cùng con gái, cháu trai ngoại tôi qua Nam
Cali dự Đại hội Vơ Bị Đà Lạt K21. Nhân dịp này tôi đă được gặp một Niên
Trưởng cấp Tướng, là Trung đoàn trưởng cũ của tôi. Gặp ông ở chung một
khu khách sạn, mới đầu ông không nhận ra tôi, nhưng sau khi tự giới
thiệu th́ ông mới nhớ ra và nói với mấy người bạn cùng khóa của tôi rằng
“anh Hải cũng là người hùng ở trận An Lộc đấy”. Sau khi nghe ông nói
vậy, tôi thật chẳng có tí phản ứng hănh diện ǵ cả, bởi đó chỉ là câu
nói xuông, “great, wonderful” của người Mỹ. Tuy không được vui lắm với
câu khen xuông của ông, nhưng tôi vẫn điềm tĩnh, xin phép ông chạy vào
pḥng gọi bà xă tôi ra để chào ông cho đủ lễ nghĩa của một đàn em đối
với đàn anh. Sau vài câu giới thiệu và chào hỏi xă giao, không hiểu ngẫu
hứng làm sao, ông lại nói một câu rất là trịch thượng, câu nói của một
người có quyền uy thuở trước, chắc để lấy le với vợ tôi chăng?: “Khi c̣n
là Tư lệnh Sư Đoàn, tôi thấy Tiểu đoàn trưởng nào làm lâu rồi, tôi đều
cho đi làm Quận trưởng”. Đến lúc này th́ tôi muốn nhịn cũng không nổi
rồi, định mở miệng hỏi ông một câu cho ra lẽ. Nhưng chợt liếc thấy vợ
tôi nháy mắt ra dấu im; tôi lại đành câm miệng hến – chắc do bản tính sợ
vợ của tôi - bởi vợ tôi không muốn tôi phá vỡ cảnh gặp gỡ thân mật này!
Đến khi vào pḥng vợ tôi hỏi tôi: “lúc năy anh muốn nói ǵ mà mặt
mày anh đỏ gay lên vậy?
Tôi trả lời: “anh định hỏi ông ta rằng cho đi làm Quận trưởng như vậy có
phải đóng tiền không?”
Qua đất Mỹ này từ năm 1991, tôi rất ít khi đi dự hội hè, tiệc tùng ǵ.
Ngoài mấy kỳ đi dự Đại hội khóa, tôi chỉ có hai lần theo chân vợ đến nhà
hai người bạn học Trưng Vương cũ của vợ tôi để ăn cơm thân mật bạn bè và
tân gia. Nhưng cả hai lần mỗi khi chủ nhà giới thiệu đến tôi và nhắc
rằng trước đây tôi đă làm Quận trưởng th́ đều bị các thực khách khác
cười ồ lên, có người c̣n muốn làm bẽ mặt tôi hơn bằng cách đặt câu hỏi:
“Tôi hỏi thật anh Hải đi làm Quận trưởng trước đây, anh phải đóng hụi
chết bao nhiêu tiền vậy?
Đối với những câu hỏi móc ḷ, tôi luôn điềm
tĩnh trả lời rất gọn:” Đất nước ḿnh trước đây thực sự có việc mua quan
bán tước, nhưng cũng có những trường hợp không phải mua, đâu phải ai
cũng giống ai”.
Có
vài thực khách không tin vào câu trả lời của tôi nên đă mạnh dạn kể đích
danh những người đi làm Quận trưởng phải hối lộ cho các Tỉnh Trưởng, Tư
lệnh Sư đoàn, Quân đoàn như thế nào và bao nhiêu?
Tôi
c̣n nhớ rơ, một ngày của tháng 3 năm 1974, tôi đang dẫn tiểu đoàn hành
quân trong rừng, anh lính truyền tin Tiểu đoàn dừng lại và đưa ống nghe
cho tôi để nói chuyện với Trung đoàn trưởng, Trung tá Vuợng.
Trung tá Vượng qua máy truyền tin nói với tôi:”báo cho Hải một tin mừng
là Tư Lệnh Sư đoàn chọn Hải đi làm Quận trưởng”
Thay v́ tôi phải hỏi lại ông là cho tôi đi làm Quận trưởng quận nào, tôi
lại đặt điều kiện với Trung tá Vượng rằng:”cho tôi đi làm th́ tôi làm,
nhưng tôi xin nói trước là tôi không có tiền bạc đóng góp đâu nhé”
Nghe tôi nói vậy, Trung tá Vượng hét lên trong máy:” ông Tư Lệnh nếu mở
tần số này và nghe mày nói thế này, th́ mày sống không nổi với ông ấy
đâu”
Tôi
nhấn mạnh thêm lần nữa: “tôi nói thật là tôi không có tiền đâu”
Trung tá Vượng muốn nổi điên, hét to hơn nữa trong máy:”không có tiền
bạc ǵ cả”. Rồi ông cúp máy không thèm nói chuyện với tôi nữa. Như vậy
trong ngày đầu tiên được đề cử đi làm Quận trưởng, tôi chưa biết ḿnh sẽ
đi coi quận nào nữa. Vài ngày sau được trực thăng bốc về BCH Trung đoàn,
lúc đó tôi mới biết tôi được đề cử đi coi quận Phú Giáo. Trước khi lên
đường đi nhận nhiệm vụ mới, tôi c̣n đặt điều kiện với Trung đoàn trưởng
là phải cho Đại úy Lạc khóa 22 Đà Lạt, đàn em của tôi được thay tôi, nếu
không tôi sẽ không đi làm Quận trưởng.
Đó là sự thực việc tôi được cử đi làm Quận trưởng quận Phú Giáo. Hôm nay
tôi cũng xin thành thật xin lỗi Tướng Vỹ v́ đă nghi oan sự đứng đắn của
ông khi đề cử tôi đi làm Quận trưởng. Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi xin lỗi
ông chắc ông mới biết, bởi v́ Trung tá Vượng cũng thương tôi nên chẳng
bao giờ tiết lộ cho ông biết về những phản ứng vô lễ của tôi khi Trung
tá Vượng thông báo tin vui cho tôi.
Tôi là người biết Tướng Vỹ mà c̣n nghi oan sự đứng đắn của ông, huống hồ
ǵ những người khác, nhất là những người không thích ông. Bởi v́ ngay
khi tôi về làm Quận trưởng Phú giáo được khoảng một hoặc hai tháng th́
Bộ Tổng Tham Mưu đề cử một vị Đại tá xuống điều tra tôi ngay. Tôi gặp
phái đoàn điều tra tại hậu cứ Trung đoàn 9, Sư đoàn 5BB. Vị Đại tá điều
tra đă nói với tôi rằng:
-
Có người đă viết đơn tố cáo ông Tư Lệnh Sư đoàn 5BB cho Thiếu tá Hải đi
làm Quận trưởng để làm kinh tài cho ông. Vậy Thiếu tá Hải hăy khai thật
anh đă nộp cho ông Vỹ bao nhiêu tiền để được đi làm Quận trưởng và đă
kiếm được bao nhiêu tiền cho ông Vỹ rồi.
- Tôi đề nghị ngay với vị Đại tá điều tra:” Tôi mới về làm Quận
trưởng, nếu đă đóng tiền cho ông Vỹ chắc chắn bây giờ tôi chưa kiếm đủ
vốn. Vậy tôi đề nghị Đại tá hăy cho ngưng chức tôi để công việc điều tra
của Đại tá được dễ dàng, nếu không có thể tôi lại dùng quyền hành ngăn
cản việc khai báo của những thuộc cấp dưới quyền tôi.
Sau khi nghe tôi tự nguyện xin thôi việc, vị Đại tá lập tức hủy bỏ
cuộc điều tra!
Không biết tôi có chủ quan hay không, nhưng tôi có cảm tưởng Tướng Vỹ có
khuynh hướng muốn huấn luyện tôi thành một sĩ quan hiện dịch mỗi ngày
được hoàn hảo hơn. Những lúc được rảnh rỗi qua thăm ông, ông thường bảo
tôi ở lại ăn cơm với ông, trong bữa cơm ông thường nói cách đ́ều quân
của ông cho tôi nghe và học hỏi, ông bắt tôi đặt câu hỏi hoặc ông hỏi
tôi. Nếu tôi trả lời đúng ư ông th́ ông gật- gù rất thích thú. Ông cũng
muốn những vị sĩ quan quanh ông mến tôi, nên ông thường khen tôi trước
mặt họ: “Hải là vua ḿn bẫy”, ông kể cho người khác nghe cách phục kích
ḿn bẫy của tôi từ khi tôi c̣n là Đại đội trưởng, có tuần tổng số VC bị
Đại đội 5 của tôi giết c̣n hơn cả tổng số Trung đoàn giết VC. Khi về làm
Quân trưởng, tôi xử dụng toán thám báo quận phục kích đặt ḿn phá hủy
được 2 hoặc 3 chiếc xe vận tải chở vũ khí, tiếp liệu của VC trong mật
khu Rang-Rang, ráp danh với tỉnh Long Khánh, ông cho trực thăng đón tôi
qua gặp ông ngay sáng sớm.
Trong bữa điểm tâm, ông nói với tôi:”Moa nghe toa không muốn làm Quận
trưởng nữa, nếu toa về lại Sư đoàn moa sẽ để toa làm Trung đoàn trưởng
hoặc Trung đoàn phó”. Tôi lúc bấy giờ là thằng háo danh, nghe “Trung
đoàn trưởng” th́ vừa tai, nhưng nghe tới “Trung đoàn phó” th́ tôi thối
lui ngay. Nhưng tôi chỉ cười, không tỏ ư muốn hay không muốn về lại Quân
đội. Lúc đó tôi nghĩ mà không nói ra rằng “thời gian làm phó của Thiếu
Tướng trước kia đă mai một tên tuổi của Thiếu Tướng, sao ông lại c̣n
muốn tôi về Sư đoàn 5 để làm Trung đoàn phó”. Mặc dầu tôi biết nếu tôi
về làm Trung đoàn phó cho Trung tá Vượng, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 7
th́ chẳng bao lâu tôi cũng sẽ được thay Trung tá Vượng. Trung tá Vượng
theo tôi được biết đang chờ lên Đại tá vào ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm
1975 để đi giữ một nhiệm vụ mới, tốt hơn. Trung tá Vượng sống được ḷng
Tướng Vỹ và nhiều người khác. Trung tá Vượng cũng muốn giao Trung đoàn
cho tôi khi ông đi, nên đă nhiều lần ông hỏi ư tôi, phân tích thiệt hơn
cho tôi nghe.
Như trên tôi không về lại Sư đoàn 5 là do “tính háo danh” của tôi, ngoài
ra c̣n một lư do chính đáng nữa mà Tướng Vỹ và Trung tá Vượng chắc không
để ư đến đó là vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, tôi thực
sự không muốn giao Quận Phú Giáo cho ai cả. Tôi biết trước sẽ có cuộc
rút quân ra khỏi Phú Giáo, nêú tôi giao lại cho một người mới đến điều
động quân (gồm 3 Tiểu đoàn Địa Phương quân, mấy chục Trung đội Nghĩa
quân, Cảnh sát, Nhân dân Tự vệ…, tất cả đều trang bị súng), chỉ một sơ
suất nhỏ cũng đưa đến hỗn loạn, vô chính phủ, không tránh khỏi những đổ
vỡ tang thương, chẳng khác chi Đại lộ Kinh Hoàng miền Trung!
Lại nữa đă có những dấu hiệu nổi loạn trong các đơn vị, tôi phải ra tay
dập tắt. Tôi xin nói thêm, các Tiểu đoàn Địa Phương Quân tuy đă thành
lập thành Liên đoàn, nhưng vẫn chịu sự điều động tác chiến trực tiếp của
tôi và tôi chỉ can dự vào việc điều động tác chiến, không hề xen vào
hoạt động nội bộ của các Tiểu đoàn trong Liên đoàn ĐPQ 935. Tôi nhớ
Thiếu Tướng Ân Tư Lệnh Phó Quân Khu 3, có lần thăm Phú Giáo đă ra lệnh
cho tôi hăy chờ khi nào các Tiểu đoàn Địa Phương Quân phát lương, tôi
hăy xuống bất chợt kiểm soát t́nh trạng lính ma, lính kiểng của các Tiểu
đoàn ấy ra sao và cho ông biết. Tuy tôi dạ vâng để Thiếu Tướng Ân vui
ḷng nhưng tôi đă không thi hành, bởi thi hành theo lệnh của ông tôi sẽ
đụng chạm rất nặng, chỉ từ chết đến bị thương cho tôi, nên tôi chẳng dại
ǵ mà húc đầu vào tường đá. Các Tiểu đoàn trưởng của Liên đoàn 935 Địa
Phương Quân tỉnh B́nh Dương vẫn nhất mực tin ở tôi và tuân lệnh của tôi
vào thời điểm thập tử nhất sinh của cuộc chiến Việt Nam. (Nếu có cơ hội
tôi sẽ viết một bài nói về cuộc rút khỏi Phú Giáo của Quân và Dân Phú
Giáo do tôi điều động).
Tướng Vỹ có đầu óc rất thực tế như người Mỹ vậy, dù tin ai nhưng vẫn
phải kiểm soát (đặt camera, máy nghe lén …)!Có lần tôi phải đi họp ở
Tỉnh, ông đáp trực thăng ghé ngay Quận Phú Giáo và vào chỗ ăn ngủ của
tôi để kiểm soát sự sinh hoạt hàng ngày của tôi. Tôi không hề buồn ông,
bởi tôi nghĩ rằng nặng thà để ông biết rơ mọi việc tôi làm c̣n hơn để
ông nghi ngờ. Tôi chấp nhận như thế, nên khi người lính trong quận báo
cáo cho tôi biết Tướng Vỹ mới ghé quan sát pḥng ốc của tôi khi tôi đi
họp ở Tỉnh th́ tôi vẫn vui vẻ như thường. Tướng Vỹ rất ghét đóng kịch,
ai kiếm được súng ở đâu mà lập trận giả để báo cáo chiến công, giết VC,
thu vũ khí th́ ông khám phá ra ngay. Tướng Vỹ rất thông hiểu thuộc cấp,
hiểu rơ tính nết của mỗi cấp chỉ huy trực thuộc. V́ Tướng Vỹ hiểu rơ về
thuộc cấp nhiều quá mà bị một số người không thích ông chăng?
Có một vị Trung đoàn Trưởng của Sư đoàn 5BB, trước ngày miền Nam mất,
đến thăm và than với tôi rằng ông không hiểu Tướng Vỹ muốn ǵ mà mỗi lần
Tướng Vỹ xuống thăm đơn vị của ông, tướng Vỹ luôn la rầy, giận dữ ông.
Vị Trung đoàn Trưởng này (rất thân với tôi) nhờ tôi rà xem (như rà ḿn
vậy) Tướng Vỹ muốn ǵ để ông lo. Tôi thực t́nh cũng chịu thua chẳng biết
Tướng Vỹ muốn ǵ nữa. Tiện đây tôi xin thành thực xin lỗi vị Trung đoàn
Trưởng trên v́ tôi đă nói ra điều này. Tôi không muốn ám chỉ Trung tá
thích đút lót, hối lộ mà chỉ muốn nói lên nỗi buồn phiền, trách móc của
Trung tá khi Trung tá đă làm hết bổn phận rồi mà sao Tướng Vỹ vẫn không
được hài ḷng. Tôi biết đến giờ này Trung tá vẫn c̣n giận Tướng Vỹ lắm.
Thôi hăy bỏ qua chuyện cũ đi, Trung tá! Tôi biết Trung tá rất thương tôi
và tin tôi nên tôi mới dám đề nghị Trung tá bỏ qua chuyện cũ để cùng tôi
ca tụng một vị Anh Hùng của Quân Lực VNCH, nào mấy ai có thể làm được
như ông. Tôi c̣n nhớ măi, hôm tôi và Trung tá ngồi chung trong hội
trường của trại tù VC ở Cát Lái (Trường Quân Khuyển cũ) – lúc đó chỉ có
tôi và Trung tá – Trung tá đă lớn tiếng và lấy tay chỉ vào mặt ảnh thằng
Hồ Chí Minh treo trên hội trường mà nguyền rủa nó thậm tệ; v́ nó mà dân
tộc Việt Nam điêu linh thống khổ, không cất đầu lên được. Tôi biết Trung
tá làm vậy để cho bơ cơn giận với thằng khốn nạn Hồ Chí Minh, nhưng ít
nhất Trung tá cũng phải tin và thương tôi nên Trung tá mới dám ngang
nhiên xỉ vả nó chứ. Bởi nhỡ tôi bán đứng Trung tá bằng cách đi báo cáo
cho VC, lập công với chúng th́ sao, phải không Trung tá? Tôi biết ông
vẫn c̣n tin và thương tôi, vậy Trung tá hăy nghe đàn em bỏ qua những
chuyện cũ đi nhé!
KỶ NIỆM SAU CÙNG NHƯNG MĂI MĂI VỚI TƯỚNG
VỸ
Vào
năm 1973, tôi thường có dịp gặp Tướng Lê Nguyên Vỹ, lúc bấy giờ ông c̣n
là Đại tá Tư Lệnh Phó Sư đoàn 21BB cho Tướng Lê Văn Hưng. Tôi được tṛ
chuyện hàn huyên với ông nhiều nhất vào thời gian ông bị thương nằm tại
Tổng Y Viện Cộng Ḥa v́ máy bay quan sát chở ông bị rớt trong khi ông đi
quan sát mặt trận tại vùng 4 chiến thuật. Một điều mà ông thường nhắc đi
nhắc lại trong các lần tôi nói chuyện với ông là “Hải ơi, coi chừng ḿnh
sẽ bị mất nước đó”. Lúc bấy giờ tôi chỉ biết lắng nghe mà không bày tỏ
một ư kiến nào. Có thể tôi chưa có khái niệm ǵ về sự mất nước cũng như
hậu quả của nó chăng? Cũng có thể tôi là một cấp chỉ huy chiến thuật rất
tự tin vào ḿnh và đơn vị, nên tôi không bao giờ lại tin là Quân Lực
VNCH sẽ thua quân VC để đến nỗi phải mất nước. Nhưng dần dà tôi cũng đă
thấy được cuộc chiến VN không được quyết định bằng các trận đánh thắng
của Quân lực VNCH ngoài mặt trận và tôi cũng đă linh cảm miền Nam khó
giữ được đất đai vẹn toàn. Vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến
VN, tuy biết miền Nam sẽ thua nhưng tuyệt nhiên tôi không có một ư định
nào bỏ trốn khỏi đơn vị để kiếm sự an toàn cho bản thân và gia đ́nh.
Những lời khuyên bảo của anh chị ruột tôi, các em gái tôi, phải bỏ đơn
vị về Sài G̣n để trốn khỏi VN, đều bị tôi để ngoài tai. Tướng Vỹ ít nhất
hai hoặc ba lần nói với tôi hăy t́m cách lo cho vợ con đi an toàn, c̣n
tôi hăy ở lại chiến đấu với đơn vị.
Khoảng hơn một tuần lễ trước khi mất nước, Tướng Vỹ cho trực thăng đón
tôi qua Lai Khê để gặp ông bàn việc. Trong khi tṛ chuyện ông thường
nhắc đi nhắc lại là đến giờ này Tông Thống Thiệu vẫn c̣n cố chấp, không
chịu nghe lời ai cả. Gặp Tướng Vỹ xong, ra đến băi đậu trực thăng, hai
sĩ quan lái trực thăng cho Tướng Vỹ nói với tôi rằng tôi hăy cố thuyết
phục Tướng Vỹ để cho họ chở Tướng Vỹ và tôi ra Đệ Thất Hạm Đội. Hai vị
Sĩ quan không quân c̣n nhấn mạnh rằng mọi người đang lo chạy trốn cả rồi
Tướng Vỹ và tôi c̣n đánh làm ǵ nữa. Tôi chỉ gật-gù cảm ơn ḷng tốt của
họ và không nói thêm ǵ cả. Hai vị Sĩ quan này chắc nghĩ tôi thân với
Tướng Vỹ, nên tôi có thể thuyết phục được ông, nhưng tôi lại nghĩ rằng
tôi đă không muốn bỏ chạy th́ tôi dại ǵ lại đi thuyết phục người khác
hăy bỏ chạy để bỏ tôi ở lại một ḿnh. Hơn nữa tôi cũng biết Tướng Vỹ đă
quyết định đánh đến cùng rồi. Về đến quận, vừa ngả lưng nghỉ mệt, người
lính gác cổng chạy vào báo cô Quư, em gái ruột tôi từ Sài G̣n lên muốn
vào gặp tôi. Tôi căn dặn người lính gác ra nói dối với em tôi rằng tôi
đi họp chưa về. Tôi đoán biết Mẹ tôi cho cô em tôi lên thúc tôi bỏ quận
để về Sài G̣n lo việc chạy trốn khỏi Việt Nam.
Tuy tôi đă quyết định ở lại chiến đấu cùng đơn vị, nhưng tôi nghĩ rằng
tôi cũng cần phải lo cho vợ con tôi, nên ngày 27 tháng 4 năm 1975 tôi
quyết định về Sài G̣n thăm gia đ́nh như lời khuyên của Tướng Vỹ trước
đây.Thực sự buổi về Sài G̣n này tôi đă chỉ dám ghé nhà bố mẹ vợ tôi tại
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên vợ tôi hăy mang hai con tôi bám theo
mẹ, anh và các em gái tôi mà chạy khỏi VN. Tôi trở về Phú Giáo ngay trưa
hôm 27 tháng 4, không dám ghé đường Lê Văn Duyệt gặp mẹ, bởi tôi biết mẹ
tôi sẽ bất cứ giá nào giữ tôi ở lại Sài G̣n để cùng gia đ́nh chạy trốn.
Tôi đă tự lựa chọn con đường cho tôi đi, mặc dù tôi biết con đường này
không có lối thoát! Nhưng tôi không thể bỏ trốn mọi người quân cũng như
dân Phú Giáo, mọi người đang trông chờ sự dẫn dắt khéo léo của tôi để
may ra được thoát chết trong giờ phút tuyệt vọng của cuộc chiến.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi hoàn toàn mất liên lạc với tỉnh B́nh
Dương! Tôi nói với Thiếu tá Hùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306 Địa
Phương Quân hăy cố gắng đánh mở đường đưa tôi về tỉnh, v́ tôi đă mất
liên lạc với Đại tá Của, Tỉnh trưởng B́nh Dương. Khoảng nửa giờ sau đó,
Thiếu tá Hùng cho tôi biết phía trước đường tiến quân có một cái chốt
cấp Đại đội của VC chặn đường. Tôi nhất quyết ra lệnh cho Thiếu tá Hùng
phải vượt qua chốt VC. Thiếu tá Hùng đă phải vượt lên tuyến đầu để chỉ
huy đánh chốt VC. Chừng nửa giờ quyết chiến, Thiếu tá Hùng báo cáo Tiểu
đoàn tràn ngập chốt của VC. Tôi liền ra lệnh toàn thể các đơn vị kéo
quân về hướng Ḥa Lợi 2 và tiến về B́nh Dương. Khốn nỗi thay! Đồng thời
lúc đó một anh lính đưa cho tôi nghe lệnh đầu hàng qua một radio nhỏ cầm
tay của Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Hạnh, tự
xưng là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Tôi bàng hoàng, nước mắt
ràn-rụa, nói với mấy người lính đứng bên cạnh:”thôi chúng ḿnh mất nước
rồi”! Tôi c̣n nhớ hôm bố tôi chết vào dịp Tết Mậu Thân 1968, khi VC đánh
vào tỉnh Phan Thiết, tôi cũng không khóc nhiều như thế. Nước mắt ở đâu
cứ ràn -rụa đổ ra! Nhưng chỉ ít phút sau tôi lấy lại được b́nh tĩnh và
đang đự định lấy tần số liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5, th́ Trung tá
Vượng Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7 kéo bộ chỉ huy đến và bảo tôi cùng
kéo quân về Lai Khê gặp Tướng Vỹ để nhận lệnh.
Đến hàng rào căn cứ Lai Khê, Trung tá Vượng và tôi phải cố gắng thuyết
phục những người lính gác ở đây mới lọt được vào cổng của căn cứ, v́ đă
có lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” của Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 5.
Vừa
bước vào pḥng họp, tôi thấy hầu hết các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Sư
đoàn 5 đang đứng, ngồi quanh Tướng Vỹ, nào Đại tá Tường Phụ tá Hành
Quân, Pháo binh, các sĩ quan tham mưu, tôi không thấy Đại tá Thoàn Tư
Lệnh Phó và Đại tá Từ Vấn Tham mưu Trưởng Sư đoàn. Tướng Vỹ ngồi ngay
giữa một chiếc bàn nhỏ, trên bàn là bát canh măng khô nấu với vịt, bên
cạnh là chén nước mắm ớt. Sau khi tôi và Trung tá Vượng chào ông theo
đúng quân cách, Tướng Vỹ nói:
-
Vượng, Hải vào ăn cơm luôn thể - Giọng nói của ông vẫn khàn khàn, b́nh
thản như mọi khi.
Tuy không nói ra nhưng tôi thấy ngán-ngẫm và nghĩ trong đầu: ”Trời ơi!
Giờ này c̣n ăn uống ǵ nữa”.
Sau
khi mời chúng tôi xong, Tướng Vỹ tự cầm chén lên xới cơm, chan canh măng
vịt và ăn rất nhanh như người bị đói đă lâu. Vừa ăn ông vừa nói:
“món
măng khô nấu vịt là món moa thích nhất”. Ăn đúng ba chén cơm đầy ông mới
buông đũa. Tôi cũng cầm chén ăn cơm, nhưng không sao nhai nổi lưng chén
cơm. Tướng Vỹ, sau khi uống ngụm nước cho trôi cơm, ông đứng phắt dậy và
vẫy tôi ra một chỗ để nói riêng. Nhưng tôi hỏi ông trước: - Thiếu tướng
có lệnh ǵ cho tôi không?
Ông
đáp rất gọn: “Moa lo cho moa, toa lo cho toa”
Tôi
chưng hửng đáp: “Tôi biết lo làm sao bây giờ, Thiếu tướng. Lính của tôi
đă bố trí sát hàng rào Lai Khê rồi”
- Khoảng hơn một tháng trước 30 tháng 4 năm 1975, Tướng Vỹ có dặn tôi
hăy chuẩn bị một số người lính trung thành để đưa ông và tôi đi. Tôi
đoán biết sẽ đi Vùng 4 Chiến Thuật để tiếp tục chiến đấu, v́ ở đó có
Tướng Hưng, Tướng Nam là những người Tướng Vỹ có thể tin tưởng được
(Tướng Vỹ đă đă nhận định không sai chút nào, v́ hai Tướng Hưng, Nam
cũng đều là những Tướng Anh Hùng, vị quốc vong thân!).
Tướng Vỹ mỉm cười nh́n chằm-chặp vào tôi, nhắc lại y như trên một lần
nữa và thêm: “Coi chừng tiêu đó Hải”. Nói xong ông quay lưng bỏ đi ngay.
Câu trả lời của Tướng Vỹ đă làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi có cảm giác
bị bỏ rơi và nghĩ rằng: “hay Tướng Vỹ đă có trực thăng sẵn sàng bốc ông
rồi!”. (Tôi lại nghi oan cho ông lần nữa)
Không đầy một phút sau, tôi giật ḿnh v́ nghe có tiếng súng nổ. Tôi thấy
Đại uư Nguyên tùy viên của Tướng Vỹ chạy ra nói lớn như khóc:”Tướng Vỹ
đă tự sát rồi!”
Tôi trách Đại úy Nguyên: “Sao anh không t́m cách dấu súng của ông Tướng
trước đi”
Đại úy Nguyên trả lời:
“Tôi biết ông có 6 khẩu súng cả
thảy, tôi đă dấu hết, khẩu ông dùng để tự sát, tôi không biết ông lấy ở
đâu” .
Viên đạn súng colt đă xuyên từ cổ lên đầu Tướng Vỹ làm ông ra đi ngay.
Tôi và Trung tá Vượng đă vào chào ông lần cuối. Cả hai chúng tôi sau đó
đă bị VC bắt giữ và đi tù ngay cùng chiều hôm 30 tháng 4 năm 1975. Sau
này tôi có nghe nhiều người nói rằng khi tên chỉ huy VC vào căn cứ Lai
Khê thấy Tướng Vỹ tự sát đă tỏ ḷng khâm phục và nói:
“Làm Tướng chết
theo thành như Tướng Vỹ mới xứng đáng làm Tướng”.
Tướng Vỹ đă tự sát đền nợ nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Măo (Âm
Lịch), tức ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Dương Lịch). Khi c̣n ở Việt Nam, dù
c̣n ở trong nhà tù VC tôi đều t́m cách giỗ ông vào ngày 19 tháng 3 âm
lịch mỗi năm. Nhưng khi qua đất Mỹ này rồi tôi sợ quên, nên tôi đổi ngày
giỗ ông vào ngày 30 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm. Sau đây là một bài thơ
tôi đă làm để kỷ niệm những ngày tôi làm giỗ Tướng Lê Nguyên Vỹ:
MĂNG KHÔ NẤU VỊT
Măng khô nấu vịt Bác không rời,
Lời
Bác, ḷng tôi luôn nhắc tôi.
Ngày cuối tháng tư, tôi giỗ Bác,
Lịch đầu năm măo, Bác chầu Trời.
Tôi vui như lúc tôi c̣n Bác,
Bác
chết là khi Bác sống đời.
Đốt
nén hương thơm tôi khấn Bác,
Măng khô nấu vịt, Bác về xơi.
Cuộc đời của tôi và biết bao các chiến hữu khác kể từ 30 tháng 4 đen,
1975 trở đi đă bước vào một khúc quanh mới của lịch sử Việt Nam, trong
đó chúng tôi phải gánh chịu mọi gian nan, đọa đày, chết chóc trong bệnh
tật, đói khát và hắt hủi của những tên lính bị tức tưởi thất trận mà có
kể ra cho ai nghe đă mấy người tin rằng thật. Bởi có nhiều người đă mơ
tưởng rằng sau khi im tiếng súng vào 30 tháng 4 năm 1975, hai miền Nam
Bắc sẽ nhận ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn đă kéo dài trong bao nhiêu
năm chính là do các thế lực bên ngoài cố ư tạo ra cho dân Việt, để rồi
anh em ôm nhau mà khóc trên cầu Bến Hải vĩ tuyến 17, cùng tha thứ cho
nhau những nhầm lẫn đáng tiếc trong quá khứ và cùng nhau đoàn kết xây
dựng lại quê hương Việt Nam đă đổ và rách nát v́ bom đạn, v́ những thứ
chủ nghĩa ngoại lai, những mớ lư thuyết và giáo điều lỗi thời, không
tưởng.
Trái hẳn với các mơ ước viển vông trên của các sư, cha, những chính
khách xôi thịt, thiển cận, v́ rằng sau màn chém giết là đến những màn
trả thù độc ác và có hệ thống khác, cũng đầy dẫy những xác người,
ràn-rụa nước mắt gây ra do đói khát, cướp bóc, tố khổ và phân ly. Hai
cây cùng trồng nhưng mọc không đều, một cây mọc thật nhanh cao hơn hẳn
cây bên cạnh mọc quá chậm; bây giờ muốn cho hai cây cao ngang bằng nhau,
thay v́ phải dùng phân bón, vun xới cho cây mọc châm được mọc nhanh hơn,
VC đă dùng một phương pháp thật là “cách mạng” để giải quyết vấn đề, đó
là dùng dao chặt đứt phần ngọn của cây mọc nhanh cho ngang bằng với cây
mọc chậm. Kế hoạch bất chợt đổi tiền xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
của VC, trong đó mỗi người dân chỉ đưọc phép đổi lấy một số tiền mới
nhất định từ những đồng tiền cũ, chính là phương pháp san bằng tài sản
rất độc đáo giữa người giàu và người nghèo của VC, y hệt phương pháp
chặt cây vừa tŕnh bày ở trên. Mọi người trong xă hội như thế chắc chắn
sẽ được nghèo như nhau!
Sau 33 năm, ngày Tướng Vỹ chết theo thành niềm đau mất nước vẫn c̣n
trong tâm khảm những người Việt Quốc Gia thật sự yêu quê hương xứ sở,
dân Việt vẫn c̣n phải sống trong đói rách lầm than, chưa bao giờ được
thở hít không khí tự do, bởi ách Thực dân, Đế quốc tuy đă được gỡ bỏ,
nhưng ách Cộng sản lại đă được tṛng vào cổ dân Việt, nặng nề gấp ngàn
lần.
......
Tôi viết đến cuối bài “Tướng Vỹ Chết Theo Thành” vào đúng cuối tháng
3, chuẩn bị bước vào tháng 4 đen mỗi năm mà mọi người Việt ở hải ngoại
không ai không nhớ đến. Riêng tôi cũng đă sẵn sàng hương đèn để
tưởng nhớ đến Tướng Vỹ. Tôi không những làm giỗ ông vào ngày 30 tháng 4,
hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán tôi luôn mời ông về chung vui Tết với Tổ
Tiên, Ông Bà và Cha Mẹ tôi. Thực ḷng tôi đă xem ông như người thân
trong gia đ́nh tôi vậy. Ông là biểu tượng của Anh Hùng Bất Khuất mà tôi
luôn ngưỡng mộ và tin tưởng. Tôi thành tâm xin thưa với ông rằng sau
tháng tư đen, 1975 mặc dù tôi đă đánh mất tất cả, nhưng tôi đă không
đánh mất tôi, tôi vẫn c̣n giữ lại được một chút ǵ gọi là liêm sỉ để
trong lời nói cũng như việc làm, tôi không khi nào nói hoặc làm có lợi
cho Cộng sản, kẻ thù không đội trời chung của ông, của tôi và của toàn
dân Việt yêu chuộng Tự do.