Lá thư của Nhà văn Xuân Vũ gởi cho một nữ “Dũng sĩ” đất Củ Chi

 

 

Hoa Kỳ, ngày 24 tháng 8 năm 1991

 

Em Bảy Mô thân mến,

 

Bất ngờ anh bắt gặp một quyển sách tiếng Anh viết về địa đạo Củ Chi trong đó có đề cập tới em và h́nh em nữa. Xem xong quyển sách này anh cười ph́ v́ nó hài hước và bịp bợm quá lẽ, anh không muốn nêu tên sách và tác giả ra đây v́ họ không đáng cho anh gọi là nhà văn, mà họ chỉ đáng được gọi là những thằng bịp. Nếu em đọc được tiếng Ăng-Lê th́ anh sẽ t́m cách gởi về cho em xem. Và chắc em sẽ có cảm tưởng rằng tác giả của quyển sách nói về một chuyện giả tưởng trên mặt trăng hoặc dưới đáy biển. Anh tự hỏi tại sao tác giả quá ngây ngô để bị lừa một cách dễ dàng rồi trở lại lừa độc giả của họ một cách vô lương như thế. Nhưng cho dù họ bịp được toàn nhân loại đi nữa, họ cũng không lừa được anh và em, những kẻ đă từng đổ mồ hôi và máu trên mảnh đất này. Riêng anh th́ đă tử thủ mặt trận: Hai ngàn ngày đêm, không vắng mặt chút nào. Để nói cho độc giả biết rằng:

Bọn Cộng Sản đă bày tṛ bịp thế gian một lần nữa, sau vụ “đường ṃn xương trắng” và khuyên những người nhẹ dạ chớ có mắc lừa, anh quyết định viết quyển sách này.

 

Họ bảo rằng bề dài địa đạo là hai trăm dậm. Em có tin không? Sự thực Củ Chi có mấy khúc địa đạo c̣n tạm xài được trước khi Mỹ vô (1964)? Quận Củ Chi là một quận nhỏ gồm mươi lăm xă cách Sài G̣n hai chục cây số đường chim bay, nhưng nó là cửa ngỏ đi vào Sài g̣n cho nên có hai bên Quốc Gia lẫn Cộng Sản đều tử chiến ở đây, một chiến trường khốc liệt nhất Miền Nam trong cuộc chiến tranh lần thứ hai của nước ta. Nếu tính bề châu vi th́ quận Củ Chi đo được chừng năm mươi cây số. Như vậy bề dài của địa đạo ít nhất bốn lần chu vi Củ Chi. Họ c̣n viết rằng “địa đạo đă lập thành một ṿng đai thép bao quanh căn cứ Đồng Dù và người cán bộ mặt trận có thể ở dưới địa đạo nghe nhạc đang đánh ở trên căn cứ này. Cụ thể là ông Năm Phạm Sang ngồi đàn dưới địa đạo mà nghe Bon Hope diễn kịch” ở trên đầu hắn.

 

Quyển sách ma này nói láo, nói bậy hoặc nói nhầm hầu hết về những ǵ đă xảy ra ở Củ Chi trong ṿng năm năm (1965-1970) anh và em có mặt ở đó. Nhưng ở đây anh chỉ nhặt ra vài ba điểm quá ư ngu xuẩn của tác giả mà một người đă dám cầm bút viết nên “sách” dù kém tài đến đâu cũng không thể có được. Ví dụ họ viết rằng “anh Tám Lê và vợ là Thị Thắm mổ xẻ thương binh dưới địa đạo”. Xin hỏi: “Làm cách nào để đem thương binh xuống đó? “ Nên biết rằng miệng địa đạo chỉ hẹp bằng cái khay trầu thôi. Người thường tuột xuống đó c̣n phải lách chứ không dễ dàng. Thương binh, nếu nặng th́ nằm trên cáng, c̣n nhẹ th́ băng bó đầy ḿnh làm sao tụt xuống được? Và nếu có tụt xuống được th́ nằm ở đâu, dụng cụ ǵ, đèn đóm nào dùng cho cuộc giải phẫu. Đó là chưa nói đến cái không khí ác độc ở dưới địa đạo. Người khỏe mạnh bất đắc dĩ phải xuống địa đạo th́ chỉ trong vài tiếng đồng hồ là đă mệt ngất ngư rồi: v́ không đủ dưỡng khí! Nếu bị kẹt vài giờ dưới đó th́ con người đă trở thành miếng giẻ rách, c̣n khi ḅ lên được th́ đă quên hết tên họ ḿnh. Vậy sau khi được giải phẫu, thương binh phải sống dưới đó làm sao? Đó là chưa kể những việc lặt vặt khác như thương binh phóng uế hoặc thủ tiêu những băng đầy máu me. Những người chưa từng ở địa đạo nghe mấy vị này mô tả chắc sẽ nghĩ rằng cuộc sống dưới địa đạo khỏe khoắn như ở trong nhà lầu có máy điều ḥa không khí. Xin thưa câu chuyện không đẹp tai cho lắm: Một lần nọ khi chui xuống địa đạo chúng tôi bị quân Việt Nam Cộng ḥa chốt trên đầu không lên được. Rủi thay một nữ cán bộ có đường kinh. Nếu ở trên mặt đất th́ dù không kịp dùng băng vệ sinh người đàn bà vẫn không toát ra mùi ǵ (xin lỗi) nhưng ở dưới địa đạo gặp trường hợp này mọi người đều ngặt ḿnh như sắp chết v́ cái mùi uế tạp kia. Người chưa từng ở địa đạo không thể biết rằng đánh một cái rắm dưới đó chẳng khác nào bỏ một trái bom nguyên tử.

 

Vậy ông “anh hùng Tám Lê” có lẽ là một Tề Thiên Đại Thánh mới có thể biến thương binh nhỏ lại bằng cái tăm để đem xuống địa đạo và nhổ lông khỉ của ḿnh biến thành dụng cụ đèn đóm để giải phẫu chăng? Ông “Tám Lê quân y sĩ” giải phẫu thương binh th́ có, nhưng bảo rằng ông ta giải phẫu thương binh dưới địa đạo là một chuyện nói láo bỏ sách vở và coi khoa học là một băi phân chuồng cũng như ông đại tướng bần cố nông Nguyễn Chí Thanh đem hầm đất ra chống B52 để rồi bị chết thảm thương như vậy. Sức khoan phá của một quả bom đ́a là mười một thước bề sâu.

 

Đây anh xin nhắc lại một câu chuyện mà hai anh em ḿnh cùng chứng kiến: Lần đó anh bị thương miểng đạn M79, em và tổ nữ “dũng sĩ” của em đưa anh vào quân y của ông Tám Lê. Vừa tới nơi anh hết sức ngạc nhiên v́ thấy một toán bộ đội rượt đánh hai vợ chồng Tám Lê chạy ḅ càng trong rừng. Kể cũng tội cho ông. Tiểu đoàn Quyết Thắng đánh ở Lộ 6 G̣ Nổi bị thương nhiều quá. Chờ đến sáng mới đem thương binh về tới Rừng Lộc Thuận tức là căn cứ của ông Tám Lê th́ bị ông từ chối. May có anh ở đó, anh rầy lính tráng và năn nỉ Tám Lê ráng giúp dùm, ḥa giải xích mích.

 

Năm 1967, trong cuộc “càn Cedar Falls” của Mỹ anh phải điều động một đại đội tới khiêng thương binh chạy dưới mưa bom B52 sau trận đánh Cây Trắc đường I làng Phú Hoà Đông về tới Bến Chùa. Trên một trăm thương binh nằm dầy đặc một khu rừng như củi mục. Tiếng la ó, rên rỉ, chửi bới vang trời. Thương binh nằm phơi bụng dưới bóng cây. Những người may mắn th́ được đặt dưới hầm giống như cái huyệt cạn, chờ họ chết là lấp đất rất gọn gàng chứ nào xuống được địa đạo địa điếc ǵ.

 

Chiến dịch đó vô cùng khủng khiếp phải không em? Nội vùng tam giác sắt trong ṿng một tháng có đến 576 cán binh ra hồi chánh. Nếu có địa đạo như kiểu ông tác giả trên nói th́ họ cứ rút xuống đó ăn hút chừng nào Mỹ đi th́ ḅ lên chống Mỹ, lựa là hồi chánh chi cho mệt phải không em?

 

Những người chưa hề đào một tấc địa đạo nào cứ tưởng rằng đào địa đạo dễ như đào hang bắt chuột vậy. Đào một chốc là có cả chục thước ngay. Than ôi! Nào phải như vậy. Những vùng đất có thể đào địa đạo được phải là vùng đất cao để không bị ngập nước và đất phải cứng để không bị sụp lở cho nên đào một thước địa đạo phải hộc ra máu cục, phải mờ cả con mắt chứ đâu có dễ như ông tác giả vẽ trên giấy. Củ Chi có mười lăm xă, nhưng chỉ có năm xă đào được địa đạo mà thôi. Đó là các xă: Phú Mỹ Hưng, Anh Phú, An Nhơn, Nhuận Đức và Phú Hoà. Năm xă này nằm dọc theo bờ sông Sàigon, có lớp đất cao có thể trồng cây cao su mới đào được địa đạo. Ngoài ra mười xă kia là đồng ruộng làm hầm bí mật đă khó rồi.

 

Anh và em đă từng đào nên từng biết mỗi tấc địa đạo phải tưới bao nhiêu mồ hôi. Mười thanh niên khoẻ mạnh đào trong một đêm chỉ được chừng vài thước là cùng. Vậy muốn hoàn thành hai trăm dậm địa đạo phải mất bao nhiêu công? Và họ đào ở đâu, lúc nào mà được hai trăm miles. Ông tác giả lại c̣n phịa ra những chuyện ly kỳ là: “địa đạo hai tầng (như nhà lầu) và dưới đáy địa đạo lại có giếng để múc nước” (nấu nước trà uống chắc!). Chưa hết, ông ta lại c̣n bịa thêm rằng “dưới địa đạo có kho chứa hàng, có nơi nghỉ ngơỉ, có chỗ chứa thương binh”, và c̣n tài ba hơn nữa, tài nói láo, lại c̣n “có bếp Hoàng Cầm theo kiểu Điện Biên Phủ” (có đường dẫn khói luồng trong đất) và nào là “đường địa đạo thông ra bờ sông Sàigon…?”

 

Đây là một chuyện phản khoa học tại sao họ có thể viết được. Muốn cho một làn địa đạo có thể chui ra chui vào được và không sợ xe tăng cán sập th́ nóc địa đạo phải cách mặt đất ít nhất chín tấc tây nghĩa là khỏi rễ cây ăn luồng, ḷng địa đạo phải cao chín tấc và h́nh chóp nón nghĩa là đáy rộng chín tấc, nóc chỉ bảy, tám tấc, nếu địa đạo rộng hơn sẽ bi lở, sụp. Đôi khi rễ cây làm trở ngại rất nhiều, chặt đứt một cái rễ cây bằng cườm tay phải mất cả giờ đồng hồ. Như vậy muốn đào tầng địa đạo thứ hai ở dưới địa đạo thứ nhất phải theo công thức trên nghĩa là phải đào sâu xuống một mét tám tấc nữa rồi mới trổ ngang đào ḷng địa đạo cao chín tấc. Như vậy từ mặt đất xuống tới đáy địa đạo thứ hai phải là: chín tấc cho nóc địa đạo I, chín tấc cho ḷng địa đạo I, chín tấc cho nóc địa đạo II, chín tấc cho ḷng địa đạo II, tổng cộng là ba mét sáu tấc. Tôi nói chi li ra như vậy để thấy rằng sự đào địa đạo không có dễ dàng, đơn sơ như ông tác giả kia tưởng tượng hoặc đă được Vơ Văn Kiệt cho xem những hầm đào bằng máy để khoe với các ông kư giả ngây thơ. Nên nhớ rằng đào đất cứng dưới hầm nó khó khăn như gọt gỗ lim chớ không phải giang thẳng cánh mà cuốc như trên mặt đất.

 

Em đă từng đào địa đạo chung với anh, nhưng em nhớ lại thử xem chúng ta đă xuống đó bao nhiêu lần và mỗi lần ở dưới đó mấy giờ đồng hồ, ngoại trừ lần anh chết ngạt ở địa đạo Bến Mương khi anh được lôi lên, cô y tá Thu ở H6 ban Pháo Binh phải cứu cấp anh bằng nước tiểu. Anh không thể tưởng tượng được rằng họ đă bịa đặt đến thế được.

 

Em Mô thân mến,

 

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp em chưa ra đời, nhưng anh đă đi bộ đội. Năm 1950, anh xuống Miền Tây để học trường Lục Quân. ở dưới đó anh cũng bị mê hoặc về những “đường địa đạo chống giặc” ở quê nhà: Nào là “cả làng, cả nhiều làng xuống địa đạo”. Hơn nữa, “dân lùa cả trâu ḅ xuống địa đạo, giặc Pháp có biết được miệng hầm cũng không làm ǵ nổi”. Ra Hà Nội, anh có gặp “anh hùng Nguyễn Văn Song”. Anh ta trở thành “anh hùng quân đội” với huyền thoại “Với một chiếc lưỡi hái cùn, anh ta đă đào hàng ngàn thước địa đạo và cất giấu cả tiểu đoàn. “ Anh vẫn tin như thế. Và cho tới khi đặt chân trở lại Củ Chi năm 1965 anh vẫn c̣n tin như thế. Nhưng chỉ sau khi đi với em đào một đêm, th́ anh mới dội ngửa ra. Anh nghĩ rằng với cái liềm cùn đó, anh Song phải chết đi sống lại mười lần mới có thể đào xong hàng ngàn thước địa đạo kể trên. Anh Song ra Bắc ở Sư Đoàn 338, trốn về Nam rồi biệt tích.

 

Tác giả quyển sách này đă không biết rằng từ sau khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam ta, hầm bí mật và địa đạo ở Củ Chi nói riêng và ở khu IV nói chung hoàn toàn mất tác dụng. Anh nhắc lại em nghe, nếu em quên, hồi đầu năm 1967, Mỹ mở một cuộc hành quân lớn vô An Nhơn. B52 vùi lấp cả một khúc địa đạo gần xóm trại Bà Huệ. Những kẻ sống sót không biết đâu mà moi móc, đành để nguyên như thế cho các nạn nhân yên ḷng nơi chín sưối với nấm mồ tập thể trên hai chục người của văn pḥng Tham Mưu quận.

 

Sau đó, một cuộc hội nghị Tham mưu gồm có Tư Hải, Sáu Phấn ở H6 và tiểu đoàn 8 Pháo Binh, bàn việc vận tải hỏa tiễn HI2/ĐKB để pháo kích Đồng Dù. Biệt kích t́m được miệng địa đạo, quăng lưu đạn chết không c̣n một mống. May mắn lần đó anh bận họp chấn chỉnh tiểu đoàn, nếu không, anh đến họp th́ đă tiêu tùng rồi.

 

C̣n ở Bến Súc, tại bờ Rạch Xuy Nô, Biệt kích Mỹ t́m ra miệng địa đạo của Ban Mật Mă điện đài Quân Khu. Họ tóm trọn ổ trên hai chục mạng, lấy vô số tài liệu và hai chiếc máy thông tin.

 

Kể từ đó địa đạo trở thành nỗi sợ hăi khủng khiếp đối với cán bộ và bộ đội. Ông Trần Đ́nh Xu, tức Ba Định, Tư lệnh Quân Khu thấy t́nh h́nh giao động của cán bộ, bộ đội nên đă ra lệnh cho bộ đội không được xuống địa đạo nữa. V́ xuống dưới đó là bị động hoàn toàn không c̣n tinh thần đâu mà chiến đấu nữa. Kẻ nào bất tuân sẽ bị kỷ luật nặng.

 

Tuy ra lệnh gắt gao như vậy nhưng chính ông trong lúc cùng đường mạt lộ ông cùng ban tham mưu khu cũng phải chui xuống địa đạo. Chẳng may, Mỹ đóng chốt trên đầu. Cô Là, xă đội phó Phú Mỹ Hưng chạy vắt gị lên Trảng Cỏ t́m anh và yêu cầu anh đem quân về đánh giải vây cho ông ở Bàu Đưng. Nếu không có anh lần đó ông và cả ban tham mưu đă an giấc ngàn thu dưới ḷng đất rồi. Nhưng thoát chết kỳ đó, sau mấy tháng, ông lại đạp ḿn mà tan xác với chức “Thứ trưởng Quốc pḥng” của Chánh phủ ông Phát.

 

Trong những người “anh hùng” mà ông tác giả kể ra, có ông “Thiếu tá Năm Thuận” nguyên là một tên du kích sọc dưa đă bỏ làng chạy qua Phú An (B́nh Dương) để làm nghề câu tôm chờ ngày rước vợ ở Ấp Chiến Lược ra sống chung. Ông “Thiếu tá” này đă giác ngộ cách mạng cao nên đă trở lại Tiểu đoàn II thuộc Trung đoàn Quyết Thắng của anh. Lúc đó quân số Tiểu đoàn chỉ c̣n trên một đại đội nên Thuận mừng húm khi được anh nhận cho làm lính lăi.

 

Bên cạnh đó c̣n có một ông thiếu tá khác đặc sắc hơn. Đó là “Thiếu Tá Quợt” chính ông này bị B52 vùi lấp c̣n ló cổ lên và chính anh với em cứu sống ở rừng Bàu Nổ xă Thanh Tuyền. Ông ta chưa hề đào một nhát cuốc địa đạo thế mà được ông tác giả đề cao là “Anh hùng đă chiến đấu mười năm ở Củ Chi bằng địa đạo.” Chiến đấu bằng cách nào? Cái ông này nổi tiếng nhờ cái tật ỉa chảy và mang chứng bịnh mắc thằng bố nói nhăm kinh niên, người xanh mét gầy nhom như khỉ già, ngồi đâu như chết đó. Mỗi lần xuống hầm hoặc xuống địa đạo là ông ta són trong quần. Mọi người rất sợ phải chui chung với ông.

 

C̣n nhân vật “chiến đấu” dũng cảm hơn hết. Đó là ông Vơ văn Kiệt, tức là “Tư Kiệt Chính ủy Quân khu”. Ông được Năm Ngố “bí thư Huyện ủy” Nam Chi nhường cho một khúc địa đạo để nương náu qua ngày tại Phú Ḥa Đông. Nhắc tới việc này, chắc em không khỏi nhớ tới em Lệ tức Tám Lệ, một nữ công tác thành của “Ban Quân báo quân khu”.

 

Lệ thường ra vào Sài g̣n, Tây Ninh… và về báo cáo các công tác, ăn ở nhờ địa đạo của ông Năm Ngô. Do đó Lệ lọt vào mắt ông “Chính ủy khu”. Ông ta bèn biến cô Lệ thành liên lạc riêng của ông ta, rồi trở thành “bạn” thân thiết dưới địa đạo. Chuyện này chắc em không biết đâu. Để chốc nữa anh nói lư do tại sao anh biết cái chuyện ly kỳ này.

 

Em Mô thân mến,

 

Anh hiện nay là kẻ lưu vong, ḷng luôn luôn hướng về đất nước. Nhưng không bao giờ mơ trở về đất nước, họa chăng có một biến thiên vĩ đại bất ngờ. Viết đến đây anh không cầm được nước mắt. Nếu như anh với em có duyên phần với nhau nhỉ? Nếu thế th́ cuộc đời chúng ḿnh sẽ không biết ra sao…

 

Thôi chuyện đă qua lâu rồi. Em đă có chồng có con cả bầy, c̣n anh cũng sắp sữa làm ông nội. Nhưng những kỷ niệm lửa máu thật khó quên. Anh không khỏi xót xa ngậm ngùi khi nh́n thấy h́nh em trên trang sách. Sao trông em sầu năo tang thương quá đổi. Có chuyện ǵ không vui trong đời em sao vậy? Đôi mắt buồn thảm của em đang ngó tới nhưng chính tâm tư của em lại nh́n ngược về dĩ văng xa vời phải không? Một cái dĩ văng c̣n loe lói trong đầu một đứa con gái mười tám tuổi được tặng danh hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ” toàn Miền Nam và cô nữ “Dũng sĩ” ấy đă yêu một chàng... nhưng chuyện lại không thành mặc dù cả hai người vẫn yêu nhau.

 

Có một lần ở đâu đó trên đất Củ Chi rực lửa vào một buổi chiều, anh có nói với em một câu và trước đó em đă tặng anh một bài thơ lục bát. Đến nay anh c̣n nhớ bài thơ này. Anh vốn là một người nhận được rất nhiều t́nh yêu, từ Hà Nội đến Mă Đà, từ Suối Cụt, suối Tha La đến Củ Chi Trảng Bàng nhưng để rồi chẳng giữ được mối t́nh nào cả. Bởi v́ anh đâu có đứng lại lâu ở một nơi nào để mà nhận lấy. Cái chết đối với anh như bỡn như đùa. Đánh cả trăm trận, bị thương ngót chục lần, chết đi sống lại vài ba lượt. Cái Tiểu đoàn mà anh chỉ huy đă mất ít nhất là ba Tiểu đoàn trưởng. Anh là người thử tư. Nhưng anh là kẻ “thọ” nhất trong các vị Chỉ huy và với anh, nó được mệnh danh là Tiểu đoàn Thép. Bây giờ nhớ lại anh mới thấy rằng cả anh lẫn em đều bị bọn Bắc Kỳ lợi dụng mà không biết. Chúng thí ḿnh như những con chốt lót đường.

 

“Chiến thắng” xong rồi, dân Nam kỳ ḿnh được ǵ?

 

Là một người dân lưu vong anh hằng mong đất nước phồn vinh, dân tộc Tự do và những bạn bè cũ của anh, trong đó có em, được hạnh phúc. Nếu như không nh́n nét mặt của em trong sách th́ anh đă có thể quên hết Hai Ngàn Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi của anh, nhưng khổ nổi là anh đă gặp lại em quá ư đột ngột.

 

Anh đă có lần nói với em về Lệ rồi. Lệ yêu anh cũng đột ngột như em. Rồi xa anh cũng đột ngột như em xa anh vậy. Lệ làm liên lạc thành rồi bị ông Tư Kiệt bắt về làm thư kư cho ông ta. “Thủ trưởng” và nhân viên lại ở chung một hầm. Ông ta quá ư ẩu tả. Để đề pḥng việc tệ hại nhất rất có thể xảy ra, Lệ đă dùng giấy pơ luya để bịt cửa ḿnh. Lệ đă nói hết với anh ở Suối Cụt. Lúc đó anh cũng đă chán nản trước t́nh h́nh càng ngày càng xấu ra. Lệ bảo thật với anh đây là lần gặp anh cuối cùng. Và Lệ đă cùng anh sống một đêm vợ chồng bên bờ suối… Một trái pháo mồ côi đă nổ rất gần lều, suưt chút nữa là hai đứa rửa chân lên bàn thờ. Hôm sau Lệ đi công tác và không về nữa.

 

Chuyện Lệ đi, dù anh biết trước nhưng không cản ngăn một lời. Ông ta đă thế th́ nàng phải thế. Và anh nữa, anh cũng phải thế. Chứ c̣n biết làm thế nào? Anh nói vậy chắc em hiểu mà. Và từ chuyện này em hiểu ra những chuyện khác.

 

Sau khi Lệ đi rất lâu, em theo du kích quận đánh đồn Thái Mỹ. Trước khi xuất quân, đáng lẽ em phải hỏi ư kiến “Tiểu đoàn trưởng “ chứ. Nhưng em đă đi đánh liều. Nghe súng trận nổ anh lập tức dắt tổ trinh sát chạy đến. Cũng vừa lúc du kích vơng em về. Anh đă biết trước các em không đánh nổi mà. Anh chỉ c̣n biết băng vết thương trên ngực của em bằng tấm áo của anh và cả tấm ḷng xót xa quặn thắt của anh nữa. Ngày nay mỗi lần nh́n tại vết sẹo trên da thịt em, chắc em nhớ lại lúc băng bó cho em, anh đă nói với em câu ǵ.

 

Sau đó ít lâu anh nghe tin em bị du kích Bàu Me ở Trảng Bàng bắt trói v́ em đang mang AK trên đường ra Ấp Chiến Lược hồi chánh. (th́ cũng như “anh hùng” Nguyễn văn Song trốn về Nam. ) Thế nhưng trong chương sách kể lể chiến công của “Nữ dũng sĩ gan góc” Bảy Mô ông tác giả đă giao cho nàng một “Công tác quan trọng ở vùng biên giới Việt Miên” cho đến khi ḥa b́nh.

 

Đúng ra, em có đi công tác ở biên giới thật, nhưng là công tác cấp dưỡng đặc biệt cho “Bà Phó Tư lệnh” Ba Định. (V́ là một “Dũng sĩ” nên du kích không dám đụng tới em, chứ nếu là ai khác th́ chúng đă bắn chết ngay rồi.) Chuyện Củ Chi dài quá em nhỉ! Định ngưng mấy lần nhưng ngưng chưa được.

 

C̣n một “ông anh hùng” khác cũng bị nêu tên trong sách này. Đó là Nguyễn Thành Linh. Một tên Bắc Kỳ vô Củ Chi và chiến đấu bằng địa đạo trong ṿng năm năm liền. Hắn được tác giả mô tả như một “kiến trúc sư của địa đạo chiến”. Vậy ra trước khi hắn vác mặt vô đây, dân Củ Chi không biết đào hầm hố hết? Nhưng địa đạo hay hầm bí mật đâu cần phải kiến trúc sư mới làm được. Cuộc sinh tồn mọi người đẻ ra sáng kiến để tự bảo vệ thôi: Anh ở Củ Chi năm năm có thấy tên nào Nguyễn Thành Linh đâu! Nhưng anh biết hầu hết tất cả địa đạo Củ Chi. Chỗ nào anh cũng biết miệng địa đạo, hoặc đă xuống địa đạo thử trước rồi. Anh đă lội nát Củ Chi không sót một mảnh rừng nào mà. Tất cả những tên làng, tên ấp tên người trong quyển sách này là thật. Đây là sự trần truồng không tiểu thuyết hóa một chút nào. Anh có thể điểm qua tất cả địa đạo trong quận Củ Chi cho em nghe: Bến Dược 200m, đồn điền Sinna 500m, Hố Ḅ 200m, Phú Ḥa 200m, Lộc Thuận 200m. Gần đồn điền Sinna 150m, Trà Dơi 150m, Xóm Trại Giàn Bầu 100m, Xóm Bàu Hưng 300m, Xóm Thuốc 200m, 200m, Xóm Chùa 200m, ấp Bến Mương 100m, Góc Chàng 500m, Cây Điệp 150m, Nhuận Đức 100m, 100m, Bầu Tṛn 100m. Bào Cạp 100m, 50m, Bầu Diều 100m, Ba Gia 100m, Bên Cỏ 100m, Đường làng II 100m, 50m. Hoàn toàn không có cái ṿng đai sắt nào chung quanh hoặc dưới đít Đồng Dù cả. Ông Phạm Sang chỉ có thể nghe Bob Hope hát ở Đồng Dù từ trong hang ếch của ông ta và trong trí tưởng tượng thôi.

 

Sở dĩ có danh từ ṿng đai thép bao bọc Đồng Dù, như em đă biết là do ông Tám Quang, “trưởng pḥng chính trị quân khu” bịa báo cáo về R cùng với sự thành lập đội nữ du kích Củ Chi của tụi em với Bảy Nê, Út Nhớ chẳng qua để quay phim, chụp h́nh và “đài giải phóng” tuyên truyền mà em đă cười khi ngồi tâm sự với anh lúc mới quen nhau. Chớ đội nữ có đánh chát cái ǵ. Toàn do ông Tám Quang sáng tác và “đài giải phóng” phóng đại.

 

Nếu như có một hệ thống địa đạo Củ Chi thôn liền thôn, xă liền xă th́ tại sao khu ủy khu IV chạy tuột lên tận Preyveng để ăn hút. Me xừ Tư Kiệt c̣n sống sờ sờ đó hăy bớt nói phét để khỏi bị cô Tám Lệ nhét mồm bằng giấy… pơ luya.

 

Chúng ta hăy cùng nhau cúi hôn mảnh đất Củ Chi đau khổ của chúng ta hiện nay đang nhục nhă v́ bị bọn Cộng Sản đem ra làm tṛ bịp thế gian.

 

Cộng Sản nghĩa là đại bịp. Chúng bịp nhân dân, bịp thế giới và tự bịp chính ḿnh. Anh muốn tự ngưng bút ở đây nhưng thấy c̣n nhiều sự thực bị bưng bít nên viết tiếp. Hai ngàn trang sách mà anh viết ra đây sẽ vạch trần bộ mặt láo toét kinh hoàng của bọn Cộng Sản Hà Nội mà cả anh lẫn em đều là nạn nhân. Anh muốn nhắc chúng nó rằng: Thời kỳ Mỹ đóng chốt Đồng Dù, Củ Chi chỉ là một băi tha ma không một bóng người thấp thoáng, không một gốc cây c̣n đứng nguyên, không một tiếng chó sủa gà gáy. Tất cả xă ủy đều chết, bị bắt, hồi chánh hoặc ngưng hoạt động. Ông Út Một Sơn bí thư đầu tiên Củ Chi bị pháo Đồng Dù bắn lắp hầm chết ở Bàu Lách Nhuận Đức năm 1966. Chắc em c̣n nhớ chớ? Nếu địa đạo Củ Chi nối liền thôn xă (theo ông tác giả ngốc này mô tả th́ nó chỉ kém đường xe điện ngầm ở Mạc Tư Khoa chút thôi) th́ sao quận Củ Chi lại cắt ra làm hai: Nam Chi, Bắc Chi? Là v́ cán bộ không đi lại được giữa hai phần đất này. Người ở đâu nằm chết ở đó. Mỗi sáng lóng ngóng chờ “chụp dù, nhảy ḍ, xe tăng càn” để lũi. Nhưng cũng không có đất lũi. Chỉ c̣n một cách độc nhất là làm hầm. Mỗi ông bà có một cái hầm bí mật (nên nhớ hầm bí mật chỉ là một cái hang ếch chứ không phải địa đạo và không có hầm bí mật nào ăn thông ra địa đạo cả ). Sư sợ hăi chết chóc làm tê liệt mọi ư chí. Cán bộ chỉ mong bị bắt sống cho khỏe thân. Cho nên họ ngồi trên miệng hầm ngụy trang với vài cành lá sơ sài như những người câu tôm câu cá ở bờ sông vậy. Do đó có danh từ “ngồi thum. “ Nhưng ngồi thum trong vùng căn cứ cũng không an toàn v́ bị máy bay trực thắng cá rô hay quạt hoặc bị ăn pháo bầy dọn băi trước khi Mỹ đổ chụp. Nên các bà Năm Đang, Hai Xót, khu ủy, quận ủy mới ra tá túc nhà dân ở Ấp Chiến Lược để “chạy lan” như chuột mất hang. Chạy lan có ngày cũng chết như trường hợp của cô Tư Bé, quận đội phó bị lính Mỹ bắn chết ở Đồng Lớn. Hay ông Tám Châu bí thư quận bị pháo bắn mất đầu ở Bố Heo.

 

Chắc em biết rơ sự chia cắt của các xă trong quận v́ t́nh trạng “ngồi thum” và “chạy lan”. Xă Trung Lập đẻ ra Trung Lập thượng, Trung Lập hạ, An Nhơn nứt thành An Nhơn Đông, An Nhơn Tây, Phú Ḥa cắt thành Phú Ḥa Đông, Phú Ḥa Tây v. v...

 

Tội nghiệp cho Madeleine Riffaud, Wilfred Burchett và mấy ông Giáo sư Liên Xô đă vượt hiểm nguy vô tận đất Củ Chi và rừng Con Mên để coi “giải phóng đánh Mỹ”! Tội nghiệp, vô tới đây họ chỉ ăn bom và lũi như chuột đến nổi đ̣i về ngay không biết cái địa đạo là ǵ. Cũng may cho bọn anh lúc đó. Nếu cặp kư giả ba sồn này ở lại lâu hơn và họ đ̣i đi nghỉ mát dưới địa đạo ngay ở đít Đồng Dù th́ rắc rối to cho các anh rồi.

 

Đến nay mụ đầm già không biết ǵ kia đang ở đâu, sao không trở lại xem địa đạo Củ Chi do kiến trúc sư Nguyễn Thành Linh mới vừa xây dựng năm 1985? Nhớ tới W. Burchett anh không khỏi ph́ cười. Lăo ta nằng nặc đ̣i xuống địa đạo và xem các dũng sĩ bố trí địa đạo chiến cho hắn quay phim. Anh và Tư Linh hồn vía lên mây. Địa đạo ở đâu mà coi? Kể từ năm 1965 trở đi, sau khi Củ Chi ăn dưa hấu B52 vài trận, ai cũng thấy những lỗ bom sâu từ sáu thước đến mười một thước cho nên không ai dám cho rằng địa đạo là bất khả xâm phạm nữa. Cực chẳng đă mới chui hầm bí mật thôi.

 

Tư Linh vốn là cán bộ địch vận, nhanh trí bảo Burchett: “Người đồng chí hơi to, vậy để chờ vài hôm tôi cho làm nắp rộng để đồng chí xuống mới lọt. “ Sau đó khất lần rồi cho qua luôn. C̣n vụ xem “địa đạo chiến” th́ anh cho “đội dũng sĩ” của em bịp hắn một cú thần t́nh, nhớ không? Hắn rất phục “đội dũng sĩ”. Đến nay hắn đă chết rồi, hắn vẫn chưa biết địa đạo là cái ǵ.

 

Em Mô thân,

 

Chuyện Củ Chi, chuyện anh và em nhiều vô số kể. Nhắc chuyện này lại nhớ chuyện kia. Nhắc Hố Ḅ nhớ Góc Chàng, nhắc Bến Mương nhớ Suối Cụt, nhắc Thái Mỹ nhớ Đồng Dù, toàn những kỷ niệm máu lửa không thể quên được. Nhớ cảnh nhớ người khôn xiết. Ba bốn lần anh bị thương ở Củ Chi đều có em băng bó hoặc tới y xá săn sóc. Anh đă tựa đầu vào vai em, anh đă nằm trên xuồng do em bơi qua sông Sài G̣n, anh đă cùng em ngồi ở rừng Lộc Thuận ngắm pháo sáng tua tủa trên nền trời Củ Chi. Anh và em đă từng hái những trái sầu riêng trong vườn sau nhà em và ngồi ở bậc đá bên con suối nhỏ. Anh th́ ăn sầu riêng c̣n em đàn bản Đứt Đường Tơ cho anh nghe. Anh bảo em: “Tơ đâu có đứt mà đàn bản ấy.”


 

Chẳng ngờ đó là bản đàn định mệnh của chúng ta. Bây giờ “Tơ đă đứt” và không phương nối lại, đàn một nơi dây đàn một ngả.

 

Anh chúc em hạnh phúc. Hy vọng một ngày rất gần, chúng ta sẽ gặp lại nhau và sẽ về thăm lại Củ Chi dưới một khung trời mới.

 

Viết xong lúc tượng con quỷ chúa Lenin bị giật sập ở Mút-cu-oa

Dương Đ́nh Lôi

Hoa Kỳ, ngày 24 tháng 8 năm 1991

 



 

(Trích: Nhà văn Xuân Vũ - 2000 Ngày đêm trấn thủ Củ Chi: 1-5)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính